Trang chủ Ghi Danh Thành Viên Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc

Trở lại   Hội Bông Sen > PHẬT HỌC TỔNG QUAN > Phật học cơ bản
Xem Thống Kê Mới Cải tạo vận mạng - Tâm tưởng sự thành (Liễu phàm tứ huấn)

Phật học cơ bản Những bài giáo lý căn bản và kiến thức Phật học phổ thông.

Gởi Ðề Tài Mới  Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
Old 05-02-2018, 10:47   #1
TinNguyenHanh
Member
 
Avatar của TinNguyenHanh
 
Tham gia ngày: Apr 2014
Bài gởi: 126
Thanks: 1
Thanked 113 Times in 52 Posts
Cải tạo vận mạng - Tâm tưởng sự thành (Liễu phàm tứ huấn)

CẢI TẠO VẬN MẠNG TÂM TƯỞNG SỰ THÀNH (LIỄU PHÀM TỨ HUẤN)
& CHUYỆN DU TỊNH Ý GẶP THẦN BẾP
Tổng hợp có sửa đổi theo bản dịch của Nguyễn Minh Tiến
và bản do Như Hòa dịch 20 bài giảng của Pháp sư Tịnh Không


Đường link download file:
https://drive.google.com/open?id=1N9...zCdKcRikbLRamz


Font chữ lớn hơn để đọc (font 22)
https://drive.google.com/open?id=1in...W_lXEKndu8FZQc



GIẢNG LIỄU PHÀM TỨ HUẤN
PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG

Việt dịch: Bửu Quang tự đệ tử Như Hoà


Đường link download file:
https://drive.google.com/open?id=1Mj...OJ5jW8_DRoQBRA



HÒA THƯỢNG TỊNH KHÔNG GIẢNG:
Nếu bạn muốn học Phật thì trước tiên hãy đọc Liễu Phàm Tứ Huấn 300 lần. Tại sao vậy? Người học Phật tâm phải thanh tịnh mới có thể vào được pháp vị. Tâm không thanh tịnh thì nghe Kinh vô ích, không thể vào được. Tâm tại sao không thanh tịnh vậy? Vì Tham- Sân-Si-Mạn chưa dẹp hết. Liễu Phàm Tứ Huấn đọc 300 lần thì bạn sẽ biết nhân quả báo ứng, bạn sẽ không tham nữa. Tại sao vậy? Tham không được đâu. “Nhất ẩm nhất trác mạc phi tiền định”, ở trong số của bạn phải vào năm đó phát tài, bạn xem trong số tử vi, không phải tử vi tính cho bạn được. Tại sao tính được vậy? Vì trong số có mà. Trong số không có thì không được, cho nên nói bạn phải có bao nhiêu của cải là do trong số bạn có vậy...


Đường link: tại phút thứ 5:01 trong video:
https://www.youtube.com/watch?v=MZah_VoQMaM

thay đổi nội dung bởi: TinNguyenHanh, 10-09-2018 lúc 00:57
TinNguyenHanh is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
TinNguyenHanh
Xem hồ sơ
Tìm bài viết khác của TinNguyenHanh
Old 05-02-2018, 10:59   #2
TinNguyenHanh
Member
 
Avatar của TinNguyenHanh
 
Tham gia ngày: Apr 2014
Bài gởi: 126
Thanks: 1
Thanked 113 Times in 52 Posts
Quyển 1: CẢI TẠO VẬN MẠNG - TÂM TƯỞNG SỰ THÀNH
(LIỄU PHÀM TỨ HUẤN)

Tổng hợp có sửa đổi theo bản dịch của Nguyễn Minh Tiến
và bản do Như Hòa dịch 20 bài giảng của Pháp sư Tịnh Không

Phần 1: Tự lập số mạng

1. Khổng tiên sinh bói số mạng:

Tôi [Viên Liễu Phàm, sinh năm 1535] thuở nhỏ đã sớm mất cha. Mẹ tôi bảo tôi từ bỏ đường công danh khoa cử để theo học nghề thuốc, vì cho rằng như thế có thể vừa tự nuôi sống lại cũng có thể cứu giúp người khác. Hơn nữa, việc tôi theo học thành tựu một nghề để có thể lưu danh ở đời cũng là tâm nguyện từ trước đây của cha tôi.
Về sau, [năm 15 tuổi (1549)], có lần tôi đến chùa Từ Vân tình cờ gặp một cụ già cốt cách phương phi, râu dài tóc bạc, tướng mạo dường như tiên ông. Khi tôi đến lễ chào cung kính, cụ già bảo tôi: “Con là người trong đường quan tước, ngày sau ắt sẽ học lên cao, sao nay con chẳng lo việc đọc sách?”
Tôi liền nói rõ nguyên nhân và hướng lão nhân thỉnh giáo quý danh? và từ nơi nào lại đây? Ông cụ bảo: “Ta họ Khổng, người Vân Nam, được chân truyền thuật toán số Hoàng Cực của Thiệu Tử, theo mạng số ắt rồi sau sẽ truyền thuật này cho con”.
Tôi liền mời cụ già về nhà, đem mọi việc trình lên với mẹ tôi. Mẹ tôi dặn phải tiếp đãi tử tế và xem cụ đoán số ra sao. Về sau, xem xét những điều cụ già họ Khổng đã tiên đoán cho tôi đều dần dần ứng nghiệm. Sau khi gặp cụ Khổng, tôi khởi ý quay lại theo việc học hành khoa cử và bàn bạc với ông anh họ Thẩm Xứng. Ông anh nói: “Thầy Úc Hải Cốc đang mở lớp học tại nhà ông Thẩm Hữu Phu, anh sẽ gửi em đến học ở đó là thuận tiện nhất”. Tôi bèn bái lạy thầy Úc làm thầy.
Cụ Khổng lại đoán trước cho tôi về đường khoa cử, nói rằng khi mới đi học, thi lần đầu ở huyện sẽ đỗ thứ 14, thi ở phủ sẽ đỗ thứ 71, thi ở tỉnh sẽ đỗ thứ 9. Năm sau (1550) tôi đi thi, ở cả ba nơi đều đỗ đạt đúng như thứ hạng cụ ấy đã dự đoán.
Cụ Khổng lại đoán số mạng trọn đời cho tôi, cho biết đến năm ấy sẽ thi đỗ thứ hạng như thế, sang năm ấy sẽ được chọn làm Lẫm sinh, sang năm ấy sẽ được chọn làm Cống sinh, lại sau đến năm ấy sẽ được bổ làm Tri huyện ở tỉnh Tứ Xuyên, làm quan được 3 năm rưỡi ắt sẽ cáo quan về quê, cho đến năm 53 tuổi (1587), vào giờ sửu, ngày 14 tháng 8 sẽ mất tại nhà, chỉ tiếc là không có con. Tôi ghi chép đầy đủ những điều ấy, luôn nhớ kỹ trong lòng.
Từ đó về sau, mỗi lần dự thi kết quả đều không ra ngoài những dự đoán của cụ già họ Khổng. Riêng có một lần, cụ Khổng đoán rằng thời gian tôi làm Lẫm sinh phải nhận đủ 91 thạch 5 đấu gạo mới được lên Cống sinh, nhưng khi số gạo nhận được của tôi vừa hơn 70 thạch thì quan tông sư họ Đồ đã thông qua việc chọn tôi làm Cống sinh, do đó tôi hơi có chút ngờ vực về sự tiên đoán của cụ. Chẳng ngờ sau đó có vị quan tạm quyền họ Dương [vừa chuyển đến] lại bác bỏ việc này, nên phải đợi đến năm Đinh Mão (1567), quan Tông sư Ân Thu Minh tình cờ xem lại những bài thi tuyển còn sót lại nơi trường thi, thấy bài thi của tôi xuất sắc mà than rằng: “Năm bài thi vấn đáp này đâu có thua những bài tấu nghị trong triều đình. Ta nỡ nào để cho người học vấn phong phú, hiểu biết thấu triệt, văn nghĩa sâu sắc như vậy bị mai một theo thời gian”. Bèn chiếu theo đề nghị cũ, phê chuẩn cho tôi lên Cống sinh. Vào lúc ấy tính lại, quả nhiên tôi đã nhận được vừa đúng 91 thạch 5 đấu gạo. Tôi nhân việc đó lại càng tin chắc rằng sự đời thăng trầm đều do số mạng, dù nhanh hay chậm cũng đều có thời hạn định trước, vì thế mà [đối với hết thảy mọi việc] trong lòng tôi trở nên lạnh nhạt không còn mong cầu gì nữa.

2. Gặp thiền sư Vân Cốc:
Sau khi được lên Cống sinh, tôi phải về kinh thành Yến đô theo học. Ở kinh đô được một năm, tôi thường ngồi yên tĩnh suốt ngày, chẳng đọc sách vở gì;[đến năm sau Kỷ Tỵ (1569)] quay về học ở Nam Ung.Trong lúc còn chưa nhập học, tôi liền đến viếng thăm thiền sư Vân Cốc Pháp Hội trong núi Thê Hà. Tôi cùng thiền sư ngồi đối diện trong một tịnh thất, trải qua suốt ba ngày ba đêm không chợp mắt. Thiền sư hỏi: “Người đời sở dĩ không thể trở thành bậc thánh nhân, đều là do vọng niệm nối nhau sinh khởi trói buộc. Nay ông ngồi suốt ba ngày không khởi sinh vọng niệm là do đâu?”
Tôi đáp: “Trước đây có tiên sinh họ Khổng từng xem số mạng cho con. Con xét thấy rằng mọi sự vinh nhục, sống chết ở đời đều do số mạng định sẵn, dù có muốn vọng cầu điều này điều nọ cũng đều không thể được [nên con chẳng nghĩ gì cả]”.
Thiền sư Vân Cốc bật cười nói: “Ta ngỡ ông là bậc hào kiệt xuất chúng, hóa ra chỉ là một kẻ tầm thường”.

3. Thuyết đổi vận mạng của thiền sư Vân Cốc:

3.1. Cực thiện số tốt lên, cực ác số giảm xuống
Tôi không hiểu, thưa hỏi. Thiền sư liền nói: “Con người khi chưa đạt được đến mức không tâm thì còn bị âm dương khí số trói buộc, sao có thể nói là không có số mạng? Nhưng chỉ những kẻ tầm thường thì số mạng mới có thể chi phối. Bậc đại hiền thì số mạng sẽ đổi tốt lên, mà với kẻ đại gian ác thì số mạng sẽ đi xuống. Ông từ 20 năm nay không tự thay đổi được mảy may nào so với những lời đoán định của Khổng tiên sinh, như thế chẳng phải là kẻ tầm thường sao?”

3.2. Phải tìm cầu mọi việc trong tâm
Tôi liền hỏi: “Vậy ra số mạng có thể thay đổi được sao?”
Thiền sư đáp: “Số mạng là do chính mình tạo ra, phước đức do chính mình cầu mà được. Trong Kinh Thi, Kinh Thư [của Nho gia]đã dạy rõ điều đó. Kinh Phật lại có nói: ‘Cầu phú quý được phú quý, cầu con trai, con gái được con trai, con gái, cầu sống lâu được sống lâu’. Nói dối là điều đại cấm mà đức Phật Thích Ca đã chế định, lẽ nào chư Phật, Bồ Tát lại nói dối để lừa gạt người đời hay sao?”
Tôi nghe vậy rồi liền hỏi tiếp: “Mạnh Tử có nói rằng: ‘Cầu ắt sẽ được, ấy là cầu nơi chính mình’.[Cho nên con hiểu rằng] đạo đức, nhân nghĩa [là ở nơi chính mình] nên có thể gắng sức cầu được, còn như công danh phú quý [vốn không ở nơi chính mình thì] làm sao có thể cầu được?”
Thiền sư Vân Cốc nói: “Lời Mạnh Tử vốn không sai, chỉ do ông tự hiểu sai mà thôi. Ông không nghe đức Lục tổ có dạy rằng: ‘Tất cả ruộng phước đều không rời tâm, từ nơi tâm mình mà cầu thì mọi sự đều cảm ứng’. [Do đó] ‘cầu nơi chính mình’ thì không chỉ cầu được đạo đức nhân nghĩa, mà cả công danh phú quý, trong ngoài đều được cả. Cách cầu như vậy mới hữu ích là vì cầu được. Nếu như không thể quay về xét lại nơi tự thân mình, [không chịu vun bồi đức hạnh] mà chỉ biết hướng ra bên ngoài tìm cầu thì chỉ đạt được những cái trong số mạng vốn có mà thôi.Cách cầu như vậy thì trong ngoài đều mất nên ắt là vô ích”.

3.3. Nguyên nhân không có công danh và con nối dõi
Thiền sư lại hỏi: “Khổng tiên sinh đoán vận mạng suốt đời của ông như thế nào?”
Tôi thật lòng đem hết mọi việc kể ra. Thiền sư liền nói: “Ông hãy tự xét mình xem có xứng đáng đắc khoa cử làm quan, có xứng đáng được sinh con nối dõi chăng?”
Tôi suy nghĩ hồi lâu rồi đáp: “Thật không xứng đáng. Những người đắc khoa cử làm quan đều có phúc tướng. Con vốn phước mỏng, lại không chịu tích lũy công đức thiện hạnh để làm cho phước dày lên. Con lại không nhẫn chịu được phiền toái khổ nhọc, thường bực bội nóng nảy, cũng không biết bao dung người khác, thường cậy tài năng lấn át người khác, nghĩ gì làm nấy, không thận trọng lời nói, lại hay luận bàn những chuyện vô bổ, hết thảy đều là những biểu hiện phước mỏng đức bạc, làm sao xứng đáng đắc khoa cử làm quan?
Đất bùn dơ bẩn thì có nhiều loài vật, cây cối sinh trưởng, chỗ nước trong thì không có cá, mà tính con lại ưa thích sạch sẽ thái quá, đó là nguyên nhân thứ nhất không con. Tính khí ôn hòa có thể nuôi dưỡng vạn vật, mà tính con lại thường nóng nảy sân hận, đó là nguyên nhân thứ hai không con. Từ ái là căn bản của sự sinh sôi nảy nở,tàn nhẫn [không từ ái] lại là căn nguyên của việc không sinh sản, mà tính con chỉ yêu quý danh tiết của mình, không thể quên mình giúp người, đó là nguyên nhân thứ ba không con. Con lại thích nói nhiều, thích than phiền, thích châm chọc người dẫn đến hao tổn khí lực, đó là nguyên nhân thứ tư không con.Con thích uống rượu mà hao tinh, đó là nguyên nhân thứ năm không con.Con thích ngồi thâu đêm,khuya mà không ngủ, không biết giữ gìn nguyên thần, đó là nguyên nhân thứ sáu không con. Ngoài ra còn quá nhiều tật xấu khác nữa, không thể đếm xuể!”.

3.4. Phước đáng được hưởng thế nào do quá khứ trồng nhân như thế ấy
Thiền sư Vân Cốc nói: “Không chỉ riêng vấn đề khoa cử,người đời có được tài sản ngàn vàng, ắt phải là người đáng hưởng ngàn vàng; kẻ nhận tài sản trăm lượng, ắt phải là kẻ đáng nhận trăm lượng. Người chịu chết đói, ắt phải là người đáng phải chết đói. Trời cũng chỉ là dựa theo số mạng của họ mà thôi, nào có thêm bớt theo ý mình. [Nói Trời ở đây thực chất chính là quả báo tự nhiên, không có một thành kiến nào khác].
Đến như việc sinh con cái, như người có phước đức truyền được trăm đời, ắt sẽ sinh được con cháu truyền đủ trăm đời; người có phước đức truyền được mười đời, ắt sẽ sinh được con cháu truyền đủ mười đời; người có phước đức truyền được ba đời, hai đời, ắt sẽ sinh được con cháu truyền đủ ba đời, hai đời; cho đến người dứt hẳn không có con cháu, ấy là do phước đức hết sức mỏng manh vậy”.

3.5. Định mạng do trời, sửa mạng do ta
[Thiền sư lại nói:]“Nay ông đã biết rõ những sai lầm của mình, biết vì sao ông không thể đắc khoa cử làm quan, không thể sinh con nối dõi, vậy ông hãy thay đổi tất cả những sai lầm đó của mình, tận tình sửa sai.Nhất thiết phải tích công đức, nhất thiết phải bao dung mở rộng tâm lượng, nhất thiết phải ôn hòa từ ái, nhất thiết phải gìn giữ bảo dưỡng tinh, [khí] và thần.
Hết thảy những việc từng làm trước đây, xem như đã chết từ hôm qua. Hết thảy những việc từ nay về sau, xem như mới được sinh ra từ hôm nay. Đó là nghĩa lý của việc tái sinh thân mới [thay đổi số mạng]. Nếu sống vì cái thân xương thịt này tất nhiên bị lệ thuộc vào số mạng, nhưng nếu sống theo nghĩa và lý [là dùng thân này làm công cụ để tạo phước phục vụ xã hội, chúng sinh] thì lẽ nào không cảm động được Trời để thay đổi số mạng [thoát khỏi nghiệp lực] hay sao?
Chương Thái Giáp trong Kinh Thư có nói: ‘Tai họa do trời định còn có thể tránh né nhưng tai họa do chính mình tạo ra thì không thể tránh miễn’. Kinh Thi nói: ‘Lời nói việc làm phù hợp đạo trời là tự cầu được nhiều phước’. Khổng tiên sinh đoán ông không đỗ Tiến sĩ, không có con nối dõi, đó là ‘tai họa do trời định’, cho nên ‘còn có thể tránh né’. Nhưng từ nay về sau ông phải trau giồi thật nhiều tính hạnh đạo đức, nỗ lực làm thiện, tích trữ âm đức, đó là tự mình tạo ra phước đức, lẽ nào lại không được hưởng hay sao?
Mục đích của Kinh Dịch là giúp cho con người biết tìm phước tránh họa. Nếu nói số mạng không đổi thì làm sao mà tìm phước tránh họa được? Ngay chương đầu của Kinh Dịch, quẻ Khôn, phần ý nghĩa nói rằng: ‘Nhà tích chứa điều thiện, ắt dư phước cho con cháu’.Ông có tin những điều đó không?”

4. Quyết tâm sửa đổi
Tôi tin nhận lời thiền sư, lễ bái xin học làm theo. Nhân đó liền đem hết thảy những điều lỗi lầm xấu ác đã qua, đối trước bàn thờ Phật mà nêu rõ, viết thành một bản sớ dài trình bày đầy đủ tất cả trong đó, cầu xin sám hối. Sau đó tôi phát tâm cầu thi đỗ Cử nhân, nguyện làm đủ 3.000 điều thiện để báo đáp ân đức của tổ tiên, trời đất.

5. Công quá cách, trì chú hàng ngày và cảm ứng khi vô niệm
Vân Cốc thiền sư lấy ra một quyển “Công quá cách” đưa cho tôi, dạy tôi học làm theo, ghi chép tất cả việc làm hàng ngày, nếu là điều thiện thì cộng thêm vào, nếu là điều xấu ác thì trừ bớt đi. Thiền sư lại dạy tôi trì tụng thần chú Chuẩn Đề, qua một thời gian ắt có sự linh nghiệm. Thiền sư bảo tôi rằng:
“Những người chuyên vẽ bùa chú thường nói: ‘Vẽ bùa không đúng cách sẽ bị quỷ thần cười chê’. Trong việc vẽ bùa có một phép bí truyền, chẳng qua đó chỉ là không khởi lên vọng niệm. Khi cầm bút vẽ, việc trước tiên là phải buông bỏ hết thảy mọi ý niệm duyên theo trần cảnh, một vọng niệm cũng không được sinh. Từ chỗ niệm chưa động mới phóng bút điểm xuống, chấm đó gọi là ‘hỗn độn khai cơ’, rồi vẽ một hơi liên tục đến hết. Từ khi hạ bút cho đến khi vẽ xong mà không có vọng niệm, tâm hoàn toàn thanh tịnh thì đạo bùa đó mới linh. Cho đến việc cầu Trời lập mạng [cũng thế], đều cảm ứng trong lúc không suy nghĩ vọng tưởng”.

6. Khi vô niệm sẽ không còn phân biệt
[Thiền sư lại nói:] “Bàn về cái học lập mạng, Mạnh Tử nóirằng: ‘yểu thọ không hai; về yểu và thọ, nếu cho là hai việc khác nhau thì trong lúc không động niệm, thế nào là yểu, thế nào là thọ’.Suy rộng ra thì dư thừa với thiếu thốn vốn cũng chẳng phải hai điều khác nhau, nhân đó mới có thể lập mạng giàu, nghèo; bế tắc với hanh thông vốn cũng chẳng phải hai điều khác nhau, nhân đó mới có thể lập mạng sang, hèn; chết yểu với sống lâu vốn cũng chẳng phải hai điều khác nhau, nhân đó mới có thể lập mạng sống, chết.
Người đời coi chuyện sống chết là quan trọng, cho nên [Mạnh Tử chỉ] nói ‘chết yểu, sống lâu’, nhưng kỳ thật hết thảy những chuyện vừa lòng hay trái ý [trong cuộc đời] cũng đều cùng một nguyên lý như vậy”.

7. Tu thân và tịnh niệm
[Thiền sư lại nói:] “Cho đến vấn đề tu thân và tịnh niệm, là tích đức và cầu trời đổi mạng. Nói ‘tu’ có nghĩa là khi thân có lỗi lầm thì đều phải sửa đổi và từ bỏ ngay. Còn ‘tịnh niệm’ là nói khi trong lòng có một tơ hào tâm cầu may, suy nghĩ không đúng, tâm loạn khởi vọng động thì cần phải trừ diệt ngay. Đạt được như vậy là đã tới cảnh giới của đại Bồ tát, đó là chân chính thực học”.


thay đổi nội dung bởi: TinNguyenHanh, 10-09-2018 lúc 00:58
TinNguyenHanh is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
TinNguyenHanh
Xem hồ sơ
Tìm bài viết khác của TinNguyenHanh
Old 05-02-2018, 11:02   #3
TinNguyenHanh
Member
 
Avatar của TinNguyenHanh
 
Tham gia ngày: Apr 2014
Bài gởi: 126
Thanks: 1
Thanked 113 Times in 52 Posts
8. Phương pháp trì chú
[Thiền sư lại nói:] “Hiện giờ ông chưa đạt được tâm thức rỗng rang không vọng niệm [như thế], cho nên phải trì chú Chuẩn Đề, không nghĩ nhớ, không tính đếm, không để gián đoạn, trì được thuần thục sẽ đến trạng thái trì như không trì, không trì mà trì. Trì đến lúc niệm không khởi sẽ thấy linh nghiệm”.

9. Tu hành suốt ngày đề cao cảnh giác
Tôi trước đây lấy hiệu là Học Hải, ngay trong ngày hôm đó liền đổi hiệu là Liễu Phàm. Đó là muốn nói khi gặp được thuyết “tự lập số mạng” này rồi thì không muốn rơi vào khuôn khổ của phàm phu nữa.
Từ đó về sau, lúc nào trong ngày tôi cũng chú tâm tự phòng hộ, so với trước đây thật hoàn toàn khác hẳn. Ngày trước tôi buông thả phóng túng, còn bây giờ luôn cẩn trọng lo lắng, cảnh giác [với những ý niệm, lời nói, hành động xấu ác], dù khi ở trong nhà kín phòng tối [không ai nhìn thấy, cũng không dám khởi lên những ý nghĩ xấu ác, chỉ] sợ đắc tội với trời đất, quỷ thần. Gặp những lúc bị người khác oán ghét, phỉ báng, tôi vẫn có thể điềm nhiên chấp nhận.

10. Số mạng bắt đầu thay đổi
Sang năm sau (1570), bộ Lễ mở khoa thi Cử, tiên sinh họ Khổng từng đoán khoa này tôi sẽ đỗ hạng ba, hóa ra tôi lại đỗ hạng nhất. Lời tiên đoán của Khổng tiên sinh không còn đúng nữa, nên [khoa thi Hương] vào mùa thu tôi lại đỗ tiếp Cử nhân.

11. Tự kiểm ưu khuyết điểm
Tuy nhiên, tôi làm việc thiện vẫn chưa được tinh thuần, tự kiểm lại bản thân thấy lỗi lầm quá nhiều. Có khi thấy việc thiện cần làm nhưng không mạnh dạn làm ngay; hoặc muốn cứu giúp người nhưng trong tâm thường nghi ngại; hoặc thân miễn cưỡng làm điều thiện, mà miệng còn mắc lỗi; hoặc lúc tỉnh còn giữ được đạo đức, nhưng khi say lại phóng dật buông tuồng; dẫn đến điểm thiện bị trừ bởi điểm lỗi, một ngày uổng phí [vì điểm thiện chẳng tăng lên được bao nhiêu]. . Vậy nên từ năm Kỷ Tỵ (1569) phát nguyện làm việc thiện mà phải đến năm Kỷ Mão (1579), trải qua 10 năm, mới hoàn tất đủ số 3.000 điều thiện. Lúc đó tôi cùng ông Lý Tiệm Ấn mới từ Quan Hải Sơn trở về, chưa kịp đem công đức hồi hướng. Mãi đến năm sau, năm Canh Thìn (1580), trở về miền nam, liền thỉnh các vị pháp sư Tính Không, Tuệ Không làm lễ hồi hướng tại thiền đường Đông Tháp.

12. Nghiêm chỉnh làm thiện và ghi sổ thiện ác
Khi ấy, tôi phát tâm cầu sinh con, lại cũng nguyện làm đủ số 3.000 điều thiện. [Năm sau là năm] Tân Tỵ (1581) thì sinh được con trai [đặt tên là] Thiên Khải.
Tôi làm được mỗi việc thiện đều ghi chép lại. Vợ tôi không biết chữ nên mỗi khi làm được một việc thiện thì dùng bút lông ngỗng khoanh một vòng son lên tờ lịch ngày hôm đó, thường làm những việc như bố thí thức ăn cho người nghèo, hoặc mua vật sống phóng sinh... có ngày được hơn mười chấm tròn như thế. [Gần bốn năm], đến tháng 8 năm Quý Mùi (1583) thì 3.000 điều thiện đã làm viên mãn. Ngày 13 tháng 9 năm đó, tôi lại phát tâm cầu thi đỗ tiến sĩ, nguyện làm 10.000 điều thiện.
[Ba năm sau], đến năm Bính Tuất (1586) tôi thi đỗ tiến sĩ, được bổ nhiệm làm Tri huyện Bảo Đề. Tôi chuẩn bị một quyển sổ, đặt tên là sổ Trị tâm. Sáng sớm khi lên công đường, tôi dặn người nhà đem sổ ấy trao cho nha dịch để trên bàn làm việc của tôi. Mọi điều thiện ác tôi làm trong ngày, dù lớn hay nhỏ, đều ghi vào đó, ban đêm lại đặt bàn trên sân, noi gương ông Triệu Duyệt Đạo ngày xưa, thắp hương báo cáo, trình tất cả lên Thượng đế.
[Có hôm] vợ tôi thấy điều thiện làm được không nhiều, nên lo lắng nói: “trước kia ông còn ở nhà, thiếp còn có thể làm điều thiện giúp, nên ba ngàn điều có thể làm xong. Nay phát nguyện làm mười ngàn điều, mà đời sống trong nha huyện không có nhiều cơ hội làm thiện, biết đến bao giờ mới làm xong?”
Đêm đó, tôi nằm mộng gặp một vị thần, liền trình bày việc khó làm đủ số điều thiện. Vị thần nói: “Chỉ riêng một việc giảm thuế ruộng cho dân thì một vạn điều thiện đã hoàn thành rồi”.
Nguyên là ruộng đất ở huyện Bảo Đề [trước đây] phải nộp thuế mỗi mẫu 2 phân 3 ly 7 hào, [khi về nhậm chức] tôi có xem xét lại, giảm xuống còn 1 phân 4 ly 6 hào. Trong lòng tôi nghi hoặc việc này xứng đáng mười ngàn điều thiện hay sao. Vừa may khi ấy có thiền sư Thích Huyền Dư từ núi Ngũ Đài đến, tôi liền đem giấc mộng ấy kể lại với ngài rồi thưa hỏi xem việc ấy có tin được chăng? Thiền sư nói: “Nếu có lòng chân thành chí thiết làm thiện thì làm một điều thiện cũng có thể bằng như vạn điều thiện. Huống chi ông giảm thuế cho cả một huyện, có cả vạn người dân được hưởng phúc ấy”. Tôi liền dùng tiền lương bổng của mình gửi nhờ thiền sư về núi Ngũ Đài làm trai tăng cúng dường một vạn vị tăng để hồi hướng công đức.

13. Lời khuyên
Khổng Tiên sinh đoán năm tôi 53 tuổi (1587) sẽ mất. Tôi cũng chưa từng cầu xin được sống lâu hơn, nhưng rồi năm ấy trôi qua mà chẳng xảy ra việc gì. Đến năm nay (1603)tôi đã được 69 tuổi.
Kinh Thư nói: “Thiên mạng không nên tin, vì mạng người không cố định”. Lại nói: “Chỉ riêng mạng số là không nhất định, [có thể thay đổi]”. Những lời ấy đều không hư dối.
Tôi từ những việc đã qua mà hiểu được rằng, mọi việc họa phúc đều do chính mình tạo,đó là lời dạy của các bậc thánh hiền. Nếu cho rằng họa phúc đều do trời định sẵn thì đó chỉ là lý luận của người phàm tục mà thôi.
Còn như khi chưa biết được số mạng thì sao?
- Đang lúc thời vận được vinh hiển, phải nghĩ như đang suy sụp, sa sút; đang lúc thời vận thuận lợi, phải nghĩ như đang gặp điều trái nghịch, trở ngại; đang lúc được ấm no đầy đủ, phải nghĩ như đang nghèo túng, đói thiếu; đang lúc được người người yêu kính, phải nghĩ như đang phải sợ sệt, lo lắng; đang lúc được quyền cao chức trọng, phải nghĩ như đang ở vào vị trí thấp hèn; đang lúc có được học vấn uyên bác, phải nghĩ như mình còn nông cạn, thô thiển.
- Nhìn xa phải nghĩ đến xiển dương đức hạnh Tổ Tiên. Nhìn gần phải nghĩ đến che giấu lỗi lầm cha mẹ. Nhìn trên phải nghĩ đến đền ơn tổ quốc. Nhìn dưới phải nghĩ đến tạo phúc cho gia đình.Đối với bên ngoài phải luôn nghĩ đến việc giúp người khi cấp thiết, đối với tự thân phải luôn ngăn ngừa những ý niệm tà xấu của chính mình. Ngày ngày tất yếu phải xét lỗi, ngày ngày cải sửa. Một ngày không nhìn ra sai trái của mình, thì ngày đó an nhiên tự cho mình là đúng [đây là lỗi lầm lớn]. Một ngày không thấy lỗi để sửa thì ngày đó không có tiến bộ nào cả.
Trong thiên hạ không ít người thông minh tài trí, nhưng sở dĩ họ ngày ngày không trau giồi đạo đức,việc thiện ngày ngày không mở rộng đều vì thói quen cũ làm qua loa cho có lệ, không hết lòng nỗ lực để tự lập số mạng, nên cứ thế mà mê đắm trôi qua hết một đời.
Thuyết “tự lập số mạng” của Thiền Sư Vân Cốc là một lý lẽ tinh tuý nhất, sâu sắc nhất, chân thực nhất, đúng đắn nhất. Ai cũng nên gắng sức nghiền ngẫm cho kỹ rồi hết lòng áp dụng trong đời sống, đừng để thì giờ luống uổng trôi qua, bỏ phí một đời.




Phần 2: Tu sửa lỗi lầm (phương pháp sửa sai)

1. Cử chỉ lời nói, hiển bày thành bại

Các quan đại phu thời Xuân Thu hễ thấy hành động, ngôn ngữ của một người nào đó liền có thể đoán biết họ sẽ gặp họa hay phúc, suy đoán này không lời nào không ứng nghiệm.Những việc này đều có ghi rõ trong các sách Tả truyện, Quốc ngữ và các truyện ký khác.
Nói chung, mọi dấu hiệu tốt xấu sắp xảy ra, đều xuất phát từ nội tâm rồi biểu hiện ra hành vi, lời nói.Như người nhân hậu rộng lượng thường được phúc,kẻ khắt khe hẹp hòi thường cận kề tai họa. Mắt phàm tục nhiều chướng ngại nên cho rằng họa phước không là nhất định, hơn nữa con người không thể dự đoán biết trước được.
Một người có lòng chí thành sẽ hợp với ý Trời.Nếu thấy tư tưởng ngôn hành là thiện, liền biết được phước sắp đến.Nếu thấy tư tưởng ngôn hành là bất thiện, liền biết được tai họa sắp xảy ra. Nay cơ sở của việc sửa sai, muốn được phước lành, tránh xa tai họa, hãy khoan nói đến việc làm thiện mà trước tiên là phải lo tu sửa lỗi lầm.

2. Nền tảng để sửa lỗi

2.1. Biết hổ thẹn

Bàn về việc sửa lỗi, điều cốt yếu trước tiên là phải khởi tâm hổ thẹn. Hãy nghĩ đến các bậc thánh hiền ngày xưa, sao cũng là thân người như ta nhưng lại có thể làm bậc thầy cho muôn đời noi theo? Còn ta vì sao không có giá trị gì cho đời? Chỉ vì ta đắm nhiễm thất tình ngũ dục, lén làm những điều bất nghĩa, tưởng không ai biết nên thản nhiên cao ngạo, có người phê bình cũng không hổ thẹn, ngày sau bị đọa vào ba đường ác mà không hề tự biết. Việc đáng hổ thẹn trong đời này thật không gì lớn hơn thế nữa. Mạnh Tử nói: “Biết hổ thẹn là [đức tính] quan trọng của con người. Giữ được đức tính ấy sẽ thành thánh hiền, đánh mất đi thì chẳng khác gì cầm thú”.Đó là chỗ then chốt của việc sửa lỗi.

2.2. Biết kính sợ
Điều thứ hai là phải biết khởi tâm kính sợ. Trời đất ở trên, quỷ Thần khó xem thường, Nay ta làm điều sai trái, tuy là ở nơi ẩn khuất [không ai thấy biết], nhưng trời đất quỷ Thần đều thấu rõ, tội nặng ắt sẽ giáng trăm điều tai ương, lỗi nhẹ ắt sẽ giảm phúc hiện tiền. Chúng ta dám không sợ hay sao!
Không những chỉ [lo sợ trời đất quỷ thần giáng tội] như vậy [mà còn phải sợ sự chỉ trích của dư luận xã hội]. Ở nơi vắng vẻ hay chốn đông người, cho dù ta cố che giấu thật kín, ngụy trang thật khéo, nhưng những điều giấu trong gan ruột rồi cũng sẽ sớm lộ ra, cuối cùng cũng không thể tự dối lòng mình. Đến khi bị người phát hiện [thì nhân cách] chẳng còn giá trị! Như vậy có thể không sợ được sao?
Không chỉ như vậy, chỉ cần còn một hơi thở, mọi tội ác đều có thể sám hối sửa đổi. Xưa có người cả đời làm ác, đến khi sắp chết mới tỉnh ngộ hối lỗi, phát một niệm thiện, liền an ổn mà qua đời. Cho nên nói rằng, khởi một niệm thiện hết sức dũng mãnh cũng đủ để gột sạch tội ác trăm năm. Giống như hang tối ngàn năm, chỉ một ngọn đèn vừa chiếu sáng thì bóng tối ngàn năm liền bị trừ sạch. Vì thế, lỗi lầm bất luận là tạo đã lâu hay mới đây, điều quý nhất là biết sửa đổi .
Nhưng cuộc đời vô thường, thân người dễ hoại, một khi hơi thở không vào nữa, muốn sửa đổi cũng không kịp. Trên dương thế mang tiếng xấu trăm ngàn năm, dù có con hiếu cháu ngoan cũng không cách nào rửa sạch; còn dưới cõi âm, trăm ngàn kiếp bị đọa vào địa ngục, dù Thánh Hiền, Phật Bồ Tát cũng chẳng thể cứu được. Vậy không lo sợ được sao?

2.3. Phát tâm dũng mãnh
Điều thứ ba là phải phát tâm dũng mãnh. Đa số người không thể sửa lỗi vì làm việc qua loa đại khái, không hết lòng nỗ lực sửa nên bị thoái chuyển. Chúng ta cần phải phấn chấn sửa ngay, không chần chừ, hoài nghi, không chờ đợi nữa.Phạm lỗi lầm nhỏ, xem như bị gai đâm vào thịt, cần nhanh chóng lấy ra; phạm lỗi lầm lớn, xem như bị rắn độc cắn ngón tay, phải chặt liền tức khắc, không chút chần chừ. Phát tâm dũng mãnh thu được lợi ích giống như sấm chớp, gió thổi ngày xuân làm cho vạn vật sinh trưởng.
Có đầy đủ ba tâm ấy, ắt có lỗi liền sửa đổi được ngay. Ví như lớp băng mùa xuân gặp ánh mặt trời, lo gì không tan chảy?

3. Hình thức sửa lỗi
Tuy nhiên, tội lỗi có thể từ trên sự tướng hoặc từ trên lý hoặc từ trên tâm mà cải sửa. Dụng công không giống nhau thì hiệu quả cũng không tương đồng.

3.1. Sửa trên sự tướng
Như ngày trước phạm lỗi sát sinh, ngày nay giữ giới không sát sinh nữa. Ngày trước nóng giận mắng chửi, ngày nay giữ giới không nóng giận nữa. Như thế gọi là từ trên sự mà cải sửa vậy. Chỉ miễn cưỡng kiềm chế từ bên ngoài, thực là khó trăm phần vì gốc bệnh vẫn còn, tội này hết tội kia liền sinh, không phải là cách sửa triệt để.

3.2. Sửa trên lý

Người khéo léo hơn trong việc sửa lỗi thì khi còn chưa phạm cấm giới đã sớm biết rõ đạo lý. Như đối với lỗi sát sinh, liền suy xét theo đạo lý rằng: “Trời có đức hiếu sinh, mọi vật đều yêu sinh mạng của mình, nay ta giết chúng để nuôi dưỡng thân mình, làm sao có thể tự an cho được? Hơn nữa, con vật bị giết kia, đã bị đâm chém cắt xẻo, rồi lại bị cho vào nồi nước sôi, chảo dầu nóng, bao nhiêu thống khổ thấu tận xương tủy.Ta lại dùng thân xác nó để nuôi dưỡng mình, dẫu có bày ra thành trăm món ngon lạ, ăn qua khỏi miệng cũng đều tiêu mất. Trong khi đó, chỉ cần canh rau đơn sơ cũng đủ no bụng, hà tất phải giết hại sinh mạng chúng sinh, làm tổn phúc báu của mình?”
Lại suy xét đến việc hết thảy muôn loài có máu thịt, khí chất, cũng đều có linh tri. Đã có linh tri thì đối với [loài người] chúng ta cũng là cùng một bản thể. Nay bản thân ta đã không thể tu đức đến viên mãn để muôn loài tôn kính yêu thương, lẽ nào lại còn xuống tay đoạt mạng, khiến chúng đem lòng oán hận, căm thù ta không sao nói hết?
Suy xét được thấu đáo như thế thì khi nhìn thấy món ăn [do giết hại mà có] ắt sẽ đau lòng, nuốt không trôi khỏi cổ.
Hoặc như trước đây vốn thường nóng giận, liền suy xét rằng: “Đối với người [xúc phạm ta] do năng lực hạn chế, xét về tình thì nên khởi lòng thương xót họ; đối với người [xúc phạm ta] một cách phi lý thì đó là lỗi của họ, liên quan gì đến ta?” Nghĩ như thế thì thấy không có gì để giận.
Lại suy xét rằng, trong thiên hạ chẳng có bậc hào kiệt nào lại tự mãn là mình hơn người, học vấn của thánh hiền cũng không dạy oán hận người. Phàm làm việc gì không được đều do tu đức của ta chưa đủ cảm hóa người khác, từ đó mà tự kiểm điểm phản tỉnh. Như vậy thì khi có người đến phỉ báng, làm nhục, liền xem đó như được cọ xát, rèn luyện [giúp đá thô] thành ngọc quý, ắt phải vui mừng đón nhận, làm sao có thể nổi giận?
Hơn thế nữa, nếu ta bị phỉ báng mà không nổi giận, thì những lời xúc phạm ấy dù có nhiều đến đâu cũng chỉ như kẻ đốt lửa giữa khoảng không, rốt cuộc cũng phải tự lịm tắt. Bằng như nghe lời phỉ báng mà nổi giận thì cho dù hết lòng khéo léo biện bạch cũng chẳng khác nào con tằm mùa xuân nhả tơ làm kén, ngày càng tự trói chặt lấy chính mình. Như vậy, sự nóng giận chẳng những là vô ích mà còn gây hại nữa.
Đối với hết thảy những lỗi lầm xấu ác khác cũng đều dựa theo đạo lý mà suy xét như thế. Khi lý đã rõ thì mọi lỗi lầm xấu ác sẽ tự chấm dứt.


thay đổi nội dung bởi: TinNguyenHanh, 10-09-2018 lúc 01:01
TinNguyenHanh is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
TinNguyenHanh
Xem hồ sơ
Tìm bài viết khác của TinNguyenHanh
Old 05-02-2018, 11:05   #4
TinNguyenHanh
Member
 
Avatar của TinNguyenHanh
 
Tham gia ngày: Apr 2014
Bài gởi: 126
Thanks: 1
Thanked 113 Times in 52 Posts
3.3. Sửa trong tâm
Thế nào là sửa trong tâm. Lỗi lầm thiên hình vạn trạng đều do tâm tạo. Nếu tâm ta không động thì thiện ác từ đâu mà sinh? Người học Phật đối với những lỗi như tham sắc, tham danh, tham tiền của, dễ nổi nóng,mỗi mỗi việc sai, bất tất phải sửa từng điều một.Chỉ cần một lòng hướng thiện, chánh niệm hiện tiền, thì tà niệm tự nhiên không khởi làm nhiễm ô được.Như khi mặt trời rực sáng giữa không trung thì yêu quái không thể tồn tại. Đây là phương pháp tinh tuý duy nhất để sửa lỗi của thánh hiền chân truyền cho thế hệ sau. Tội do tâm tạo thì phải từ trên tâm mà sửa. Như muốn trừ cây độc, chỉ cần đốn ngay gốc, đâu cần ngắt từng chiếc lá và tỉa từng cành.
Nói chung thì phương pháp đối trị [lỗi lầm] ngay từ trong tâm là trên hết. Tâm đang thanh tịnh, nếu vừa động một niệm, lập tức liền quan sát đến được. Một khi giác rồi thì ý niệm này liền không còn nữa.

3.4. Áp dụng tùy căn cơ
Nếu không làm được theo phương pháp sửa trong tâm, thì dùng phương pháp suy xét rõ ràng theo đạo lý để sửa lỗi.
Phương pháp này cũng làm không được, thì dùng phương pháp sửa lỗi từ trên sự tướng.
Nếu sử dụng phương pháp “sửa lỗi từ trên tâm” đồng thời kèm theo những phương pháp còn lại thì cũng chẳng sai. Nhưng nếu chỉ cố chấp vào phương pháp thấp mà bỏ hẳn phương pháp cao thì là khờ dại.

4. Dấu hiệu khi lỗi đã tiêu và tội tạo đã nặng

4.1. Dấu hiệu khi lỗi đã tiêu

Tuy là đã phát nguyện sửa lỗi, nhưng cần phải có bạn tốt liên tục nhắc nhở và quỷ thần chứng minh. Một lòng sám hối [sửa sai], ngày đêm không chút giải đãi, trải qua một tuần, hai tuần, cho đến một tháng, hai tháng, ba tháng... ắt có hiệu quả ứng nghiệm. Chẳng hạn như cảm thấy tinh thần điềm nhiên, khoan khoái khoáng đạt; hoặc cảm thấy trí tuệ khai mở, hốt nhiên sáng suốt; hoặc có lúc công việc bận rộn phức tạp nhưng cảm thấy thông suốt có hướng giải quyết dễ dàng; hoặc có lúc gặp kẻ oán thù nhưng có thể đổi giận làm vui; hoặc mơ thấy nôn mửa ra vật dơ bẩn; hoặc mộng thấy các bậc hiền thánh ngày trước hiện đến dắt dẫn ân cần; hoặc mơ thấy mình đi lại nhẹ nhàng trên hư không; hoặc mộng thấy tràng phan, bảo cái và đủ mọi cảnh tượng thù thắng tốt đẹp... Hết thảy những điều đó là biểu hiện của việc lỗi đã tiêu tội đã diệt. Tuy nhiên, không được chấp vào đó mà tự cao, vì như thế sẽ chặn lại, không thể tiến thêm được.
Xưa có ông Cừ Bá Ngọc, năm 20 tuổi đã tưởng mình sửa đổi được hết những sai trái trước đây rồi. Nhưng sang đến năm 21 tuổi mới biết việc sửa lỗi trước đây vẫn chưa triệt để. Sang năm 22 tuổi thì ông nhìn lại năm 21 tuổi, [thấy việc sửa lỗi] như trong giấc mộng. Cứ như thế năm này sang năm khác, tuần tự sửa lỗi. Cho đến năm 50 tuổi vẫn còn thấy lỗi của năm 49 tuổi.
Việc học sửa lỗi của người xưa là như thế. Chúng ta đều là phàm phu, lỗi lầm đầy mình. Nhưng nghĩ về quá khứ, thường cảm thấy bản thân hình như không có lỗi lầm gì cả. Đấy là bởi tâm thô nên mắt bị che mờ.

4.2. Dấu hiệu khi tội tạo đã nặng
Tuy nhiên, người gây tội ác sâu nặng cũng có những biểu hiện như tâm thần hôn ám bế tắc, nói trước quên sau; hoặc không duyên cớ gì nhưng thường sinh phiền não; hoặc thấy người chính nhân quân tử thì cảm thấy hổ thẹn ngượng ngùng; hoặc nghe những lời bàn luận chân chính nhưng lại không vui; hoặc thường bị rơi vào cảnh làm ơn mắc oán; hoặc đêm ngủ gặp ác mộng;thậm chí nói năng lộn xộn, tâm thần bất định.Đó đều là tướng của người gây nhiều tội ác. Nếu thấy có một trong những biểu hiện như thế thì phải lập tức phát tâm mạnh mẽ phấn chấn, một lòng bỏ cũ làm mới,đừng tự dối mình.




Phần 3: Tích chứa điều lành (phương pháp tích thiện)

1. Những câu chuyện làm thiện dư phước cho con cháu

Kinh Dịch nói: “Nhà nào tích chứa điều lành ắt dư phước cho con cháu”. Thuở xưa, họ Nhan mang con gái gả cho Thúc Lương Hột vì thấy tổ tiên của ông này từng đời đều tích nhiều phước đức, do đó dự đoán rằng con cháu về sau ắt được hưng thịnh [quả nhiên sau này sinh ra thánh nhân Khổng Tử]. Đức Khổng Tử khi ngợi khen vua Thuấn là bậc đại hiếu có nói rằng: “Không những Tổ Tiên được hưởng cúng giỗ nơi tông miếu mà cũng đảm bảo được con cháu đời đời thịnh vượng”. [Sau này con cháu của vua Thuấn cai trị nước Trần]. Những lời như thế đều là sự luận giải chí lý. Nay minh chứng bằng những chuyện lịch sử:

1.1. Cứu người chết đuối
Quan Thiếu sư họ Dương, tên Vinh, người Kiến Ninh, tổ tiên nhiều đời đều sống bằng nghề đưa đò. Gặp lúc trời mưa lâu, nước sông suối dâng cao, chảy xiết, cuốn trôi cả vùng dân cư, nhiều người bị cuốn theo dòng xuống hạ lưu. Những thuyền khác lo vớt của cải trôi trên mặt nước, còn ông cố và ông nội của Thiếu Sư chỉ lo cứu người, hoàn toàn không vớt một chút tài vật nào. Dân làng đều cười chê họ là ngu.
Đến khi cha của Thiếu sư ra đời, gia đình dần dần khá giả lên. Bỗng có vị thần hóa thành một đạo sĩ đến bảo [cha của Thiếu sư] rằng: “Ông nội của ngươi có âm đức lớn, con cháu sẽ được phú quý vinh hiển, có thể chôn cất vào chỗ đất tốt này”.Cha của Thiếu sư làm y theo chỉ dẫn. Chỗ ấy ngày nay gọi là gò bạch thố.
Về sau sinh ra Thiếu sư, hai mươi tuổi đã đậu Tiến Sĩ, làm quan đến chức Tam Công. Ông cố, ông nội và cha của Thiếu sư đều được Hoàng Đế truy phong quan tước như vậy. Con cháu đều được quý hiển thịnh vượng. Cho đến nay vẫn còn nhiều người hiền đức.

1.2. Khuyên quan và nhịn ăn cứu tù
Dương Tự Trừng người huyện Ngân, ban đầu vốn chỉ là một viên thư lại trong nha huyện, luôn giữ lòng nhân hậu, thi hành pháp luật một cách công bình. Quan huyện khi ấy là người nghiêm khắc, một hôm tùy tiện dùng roi đánh một người tù đến nỗi máu chảy đầy sân mà vẫn chưa hết cơn giận. Họ Dương quỳ xuống xin tha [cho người tù]. Quan huyện nói: “Người này vi phạm pháp luật, làm trái đạo lý, ta làm sao có thể không tức giận?” Tự Trừng khấu đầu thưa rằng: “[quan lại] triều đình có lỗi [không dậy dỗ], khiến lâu nay người dân mất đi lòng tin đối với Triều đình [mà phạm pháp], như hiểu được tình cảnh đó thì [khi xét xử tội trạng] nên thương xót họ, chớ lấy [việc trừng phạt được tội ác] làm vui.Vui còn không nên, huống chi lại nổi giận?” Quan huyện nghe lời ấy rồi liền thôi không giận nữa.
Nhà Tự Trừng rất nghèo, nhưng có ai mang quà đến biếu đều tuyệt đối không nhận. Gặp lúc thiếu lương thực, tù nhân phải chịu đói, ông thường tìm đủ mọi cách để có cho họ ăn. Ngày kia, có thêm một số tù nhân mới được giải đến đang đợi cho ăn, gặp lúc nhà ông đã gần hết gạo, nếu mang cấp cho tù nhân thì cả nhà phải chịu đói, nếu giữ gạo lại ăn thì những người tù kia thật đáng thương. Ông liền đem việc ấy bàn với vợ. Vợ ông hỏi: “Những người tù ấy từ đâu chuyển đến?” Ông đáp: “Từ Hàng Châu đến, dọc đường đã phải chịu đói rất lâu, thấy rõ sắc mặt xanh lè!” Nhân đó, [vợ chồng] ông liền lấy hết số gạo còn lại trong nhà, nấu cháo mang đến cho tù nhân ăn.
Về sau, ông sinh được 2 người con trai. Con trưởng là Dương Thủ Trần, con thứ là Dương Thủ Chỉ, cả 2 đều làm quan Lại Bộ Thị lang ở 2 vùng Nam [kinh] và Bắc [kinh]. Lại có 2 người cháu nội, cháu lớn làm quan đến chức Hình Bộ Thị lang, cháu nhỏ làm quan Liêm Hiến ở tỉnh Tứ Xuyên, đều là những vị quan có danh tiếng. Ngày nay, các ông Sở Đình, Đức Chính đều là con cháu của Dương Tự Trừng.

1.3. Tránh giết dân lành
Trong khoảng niên hiệu Chính Thống, Đặng Mậu Thất cầm đầu nổi loạn ở Phúc Kiến, những kẻ có học và dân thường cùng theo hưởng ứng rất đông. Triều đình cử quan Đô hiến là Trương Giai từ huyện Ngân kéo quân về phía nam để chinh phạt. Trương Đô hiến dùng mưu bắt được kẻ cầm đầu [nhưng vẫn còn lại một vài dư đảng].Cho nên triều đình lại cử viên Đô sự họ Tạ thuộc Bố Chánh ty [của tỉnh Phúc Kiến] đi truy lùng bắt giết những kẻ còn lại ở đường phía đông. Tạ Đô sự cố sức điều tra được danh sách những tên giặc. Sau đó, đối với những gia đình nào không có tên trong danh sách liền kín đáo sai người đến trao cho một lá cờ nhỏ bằng vải trắng, dặn họ vào ngày quân binh truy quét thì cắm lá cờ ấy trước cửa. Tạ Đô sự lại nghiêm cấm quân lính không được giết người bừa bãi, nhờ vậy mà cứu sống được đến hàng vạn người [không phải chết oan].
Về sau, con trai của Tạ Đô sự là Tạ Thiên thi đỗ Trạng nguyên, làm quan đến chức Tể tướng. Cháu nội là Tạ Phi cũng đỗ Thám hoa.

1.4. Bố thí chân thành
Ở huyện Bồ Điền [thuộc tỉnh Phúc Kiến] có nhà họ Lâm, đời trước có một lão bà ưa thích làm điều thiện, thường làm bánh bao rồi đem bố thí cho người, ai đến xin cũng cho, không chút phiền hà. Có một vị tiên hóa hình làm đạo nhân, sáng nào cũng tới và xin đến 6, 7 cái bánh. Lão bà ngày nào cũng đưa cho, trải qua 3 năm đều đặn như vậy. Vị tiên thấy được tấm lòng chân thành của bà rồi, liền nói: “Ta ăn bánh của bà đã 3 năm, biết làm sao đền đáp? Sau nhà bà có một chỗ đất, [khi nào bà mất đi, dặn trước người nhà hãy] chôn cất bà nơi ấy, con cháu về sau sẽ được hưởng quan tước nhiều như số hạt vừng trong một thăng vừng”.
Người con trai theo lời mẹ dặn, chôn cất lão bà nơi chỗ đất ấy. Ngay đời sau đó đã có 9 người đỗ đạt. Trải qua nhiều đời sau nữa thì những người quyền quý quan tước trong họ ấy rất nhiều. Tỉnh Phúc Kiến có lưu truyền câu tục ngữ rằng: “Không có họ Lâm thì không lập được bảng vàng” [ý nói không một khoa thi nào lại không có người họ Lâm đỗ đạt].

1.5. Cứu người rét cứng
Cha của quan Thái sử Phùng Trác Am khi còn học ở trường huyện, vào một ngày mùa đông cực kỳ rét buốt, dậy sớm đến trường học, giữa đường bỗng nhìn thấy một người bị ngã nằm trong đống tuyết, đến sờ vào thì thấy đã bị tê cứng đến nửa người rồi. Ông liền cởi chiếc áo ấm đang mặc ra đắp cho người ấy, rồi đưa về nhà cứu sống.
Sau đó, ông mộng thấy một vị thần bảo rằng: “Ông cứu được một mạng người, có tâm chí thành, nay ta sai Hàn Kỳ đến làm con ông”. [Nhân đó nên] đến khi sinh con trai liền đặt tên là Phùng Kỳ, [sau mới lấy hiệu là Trác Am].

1.6. Giúp đỡ ngấm ngầm
Quan Thượng thư họ Ưng người Đài Châu [thuộc tỉnh Chiết Giang], thuở còn thanh niên học tập trong vùng núi, ban đêm có bọn ma quỷ tụ tập kêu rú, thường khiến mọi người kinh sợ, nhưng riêng ông không chút sợ sệt.
Một đêm nọ, ông nghe tiếng quỷ nói: “Có một phụ nữ kia vì chồng đi xa đã lâu không về, cha mẹ chồng [nghĩ là con mình đã chết nên] ép cô ấy phải lấy chồng khác. [Cô ấy không chịu nên] đêm mai sẽ thắt cổ tự tử ở nơi ấy. Vậy là ta có người thế thân rồi”.
Họ Ưng nghe biết được tên người phụ nữ trong câu chuyện, liền ngầm bán ruộng nhà được 4 lượng bạc, rồi viết một bức thư giả làm thư của người chồng gửi về nhà, kèm theo cả 4 lượng bạc. Cha mẹ chồng của người phụ nữ kia nhận được thư, xem chữ viết không phải của con mình nên nghi ngờ, nhưng rồi lại nghĩ: “Thư có thể giả, nhưng tiền làm sao giả được?” Vì thế, họ cho rằng con mình vẫn bình an không xảy ra chuyện gì. Người phụ nữ kia nhờ vậy không [bị ép] lấy chồng khác.
Về sau, người chồng quay về, vợ chồng lại được đoàn tụ như xưa. Một đêm, họ Ưng lại nghe quỷ nói với nhau: “Ta đã sắp có người thế thân, chỉ do gã tú tài này phá hỏng chuyện của ta”. Có con quỷ gần đó hỏi: “Sao mày không hại nó?” Quỷ kia đáp rằng: “Thượng đế thấy người này tâm địa tốt lành nên đã truyền lệnh ghi âm đức cho ông ta sau này sẽ làm quan Thượng thư, tao làm sao có thể hại được?”
Họ Ưng nghe như vậy càng thêm nỗ lực, việc thiện ngày càng làm được nhiều hơn, phước đức càng thêm sâu dày. Gặp năm mất mùa đói kém, ông liền mang gạo của nhà ra cứu giúp cho người đói; gặp người thân thích có việc nguy cấp, ông liền ân cần giúp đỡ họ vượt qua; gặp những hoàn cảnh trái nghịch, ông thường quay lại tự xét lỗi mình rồi vui vẻ chấp nhận. Con cháu của ông đỗ đạt Tiến sỹ thành danh, tính đến nay số lượng rất nhiều.

1.7. Giúp người nghèo và lợi ích xã hội
Huyện Thường Thục [thuộc tỉnh Giang Tô] có người tên Từ Thức, hiệu Phượng Trúc. Cha ông vốn là người giàu có. Gặp một năm mất mùa đói kém, cha ông là người trước tiên trong toàn huyện đề xướng việc hủy bỏ không thu tô [của nông dân], sau đó lại mang lúa gạo trong nhà ra phân phát cứu giúp người đói thiếu. Đến đêm nghe tiếng quỷ thần nơi cửa trước hô to rằng: “Ngàn vạn lần quyết không lừa dối, tú tài nhà họ Từ sẽ đỗ Cử nhân”. Nhiều đêm liên tiếp đều nghe tiếng hô to như vậy. Năm ấy, Phượng Trúc dự kỳ thi Hương quả nhiên đỗ Cử nhân. Cha ông nhân đó càng nỗ lực làm thiện, ngày càng nhiều hơn, không chút biếng trễ. Những việc như tu sửa cầu đường, cúng dường trai tăng, cứu giúp người nghèo đói... cho đến hết thảy những việc mang lại lợi ích [cho người khác] ông đều cố hết sức làm. Về sau lại nghe tiếng quỷ thần hô to nơi cửa trước rằng: “Ngàn vạn lần quyết không lừa dối, Cử nhân nhà họ Từ sẽ làm quan đến chức Đô Đường”. Về sau, Phượng Trúc [quả nhiên] làm quan đến chức Tuần phủ Lưỡng Chiết.

thay đổi nội dung bởi: TinNguyenHanh, 19-02-2018 lúc 11:19
TinNguyenHanh is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
TinNguyenHanh
Xem hồ sơ
Tìm bài viết khác của TinNguyenHanh
Old 05-02-2018, 11:08   #5
TinNguyenHanh
Member
 
Avatar của TinNguyenHanh
 
Tham gia ngày: Apr 2014
Bài gởi: 126
Thanks: 1
Thanked 113 Times in 52 Posts
1.8. Âm thầm làm thiện không ai biết
Có viên Chủ sự bộ Hình tên Đồ Khang Hy là người quê ở phủ Gia Hưng [thuộc tỉnh Chiết Giang]. Một đêm nọ, ông vào trong ngục, thận trọng tra hỏi tỉ mỉ trường hợp của từng người tù, qua đó phát hiện được một số người vô tội. Ông không lấy đó làm công lao của riêng mình, liền bí mật viết hết lời khai của các tù nhân thành văn bản trình lên quan Thượng thư bộ Hình. Sáng sớm hôm sau khi xét xử tội nhân, quan Thượng thư dựa theo những lời ông đã báo lên mà tra hỏi, hết thảy tù nhân đều khâm phục nhận chịu, nhờ đó làm rõ và phóng thích được hơn mười người bị oan. Bấy giờ, [qua sự việc ấy,] dân chúng ở kinh đô đều ca tụng quan Thượng thư là người sáng suốt.
Đồ Khang Hy lại thưa với quan Thượng thư rằng: “Ngay ở chốn kinh thành mà còn có nhiều người dân bị oan ức, dân chúng bốn phương số nhiều đến hàng triệu người, lẽ nào lại không có những kẻ bị oan? Vì thế, cứ 5 năm một lần triều đình nên cử một vị quan Giảm hình [về các địa phương] tra xét sự thật [các vụ án] để phán xử lại cho công bằng”. Quan Thượng thư trình tấu đề nghị ấy lên triều đình, được chuẩn y. Bấy giờ, Đồ Khang Hy cũng được đề cử làm một trong số các quan Giảm hình.
Đêm nọ, Đồ Khang Hy mộng thấy một vị thần bảo rằng: “Mạng số của ông vốn không có con, nay ông đề nghị việc giảm hình rất hợp lòng trời, Ngọc Đế ban cho ông 3 người con, về sau đều sẽ được áo tía đai vàng”. Đêm ấy, vợ ông có thai rồi sinh ra con trai là Đồ Ứng Huân. Sau lại sinh được Đồ Ứng Khôn, Đồ Ứng Tuấn. Cả ba người con ấy sau đều được quan tước hiển vinh.

1.9. Chân thành cúng dường xây mái chùa
Phủ Gia Hưng [thuộc tỉnh Chiết Giang] có người tên Bao Bằng, tự là Tín Chi. Cha ông làm quan Thái thú Trì Dương, sinh được 7 người con. Bao Bằng là con út, làm rể nhà họ Viên ở huyện Bình Hồ [cũng thuộc phủ Gia Hưng]. Ông Bao Bằng với cha tôi có giao tình hết sức thân mật. Ông học rộng tài cao nhưng đi thi nhiều lần không đỗ, [liền quay sang] chú tâm vào Phật học và Lão học. Một hôm, ông đến vùng phía đông hồ Liễu du ngoạn, bỗng gặp một ngôi chùa làng có pho tượng Quán Âm [đứng trong chùa mà] bị nước dột thấm ướt hết. Ông lục trong túi còn được 10 lượng bạc, liền trao hết cho thầy trụ trì để tu sửa mái chùa. Thầy trụ trì nói việc này tốn kém nhiều mà tiền như vậy quá ít, e không thể làm được. Bao Bằng liền lấy ra bốn xấp vải Tùng, lại soát trong rương hành lý được bảy cái áo vải kép loại tốt, chỉ vừa mới mua, liền trao tất cả cho thầy trụ trì. Người hầu có ý ngăn cản, Bao Bằng liền nói: “Chỉ cần thánh tượng Bồ Tát không bị hư hoại, ta dù không mặc áo cũng chẳng hề gì”. Thầy trụ trì cảm động rơi nước mắt, nói: “Đem tiền, vải, áo cúng dường, cũng không phải việc khó làm, nhưng tâm chí thành như ông thật không dễ có!”
Khi việc tu sửa ngôi chùa đã hoàn thành, Bao Bằng lại đưa cha mình cùng đi đến viếng chùa, nghỉ đêm lại đó. Ông mộng thấy có vị hộ pháp đến cảm tạ và nói: “Con ông sẽ được hưởng lộc ở đời”.
Về sau, con trai ông là Bao Biện, cháu nội là Bao Sanh Phương, đều đỗ đạt Tiến sỹ, làm quan vinh hiển.

1.10. Giúp tù giải oan không cần đền đáp
Huyện Gia Thiện [thuộc tỉnh Chiết Giang] có người tên Chi Lập. Cha ông trước đây là một viên thư lại giúp việc hình án trong huyện. Có người tù vô tội nhưng bị hãm hại phải chịu tội tử hình. Ông thấy vậy thương xót, muốn tìm cách gỡ tội oan cứu cho được sống. Người tù [nhân lúc vợ vào thăm] nói với vợ rằng: “Ông Chi có lòng tốt cứu giúp, tôi thật hổ thẹn không biết lấy gì báo đáp. Ngày mai nàng hãy mời ông ấy đến nhà chơi, xin được đem thân hầu hạ chăn gối. Nếu ông ấy chấp nhận thì tôi có thể giữ được mạng sống”. Người vợ khóc mà vâng lời.
Hôm sau, khi ông Chi đến nhà, người vợ tự mình ra hầu rượu, nói rõ ý chồng mình. Ông Chi không chấp nhận, nhưng sau đó vẫn đem hết sức lo liệu sự việc. Khi người tù được tha, vợ chồng cùng đến nhà ông bái tạ rồi nói: “Ân đức của ông thật trên đời hiếm có. Nay biết ông không có con, chúng tôi có đứa con gái vừa lớn, xin cho được theo làm hầu thiếp lo liệu việc nhà. Như vậy cũng là theo đúng lễ nghi”.
Ông Chi liền lo đủ lễ vật mà cưới về. Sau sinh ra Chi Lập, 20 tuổi đã thi đỗ đầu bảng, sau làm quan đến chức Khổng Mục trong Hàn Lâm viện.
Chi Lập sinh con là Chi Cao, Chi Cao sinh ra Chi Lộc, đều đỗ Cử nhân, học vấn uyên bác. Chi Lộc lại sinh ra Chi Đại Luân thi đỗ tiến sĩ.



2. Tiêu chuẩn làm thiện
Mười trường hợp vừa kể trên, tuy việc làm khác biệt, nhưng giống nhau ở chỗ đều là việc thiện.Nhưng chi li mà nói thì làm thiện có phân ra thiện chân thật khác thiện giả dối, thiện thẳng khác thiện cong, âm đức khác dương thiện, đúng đắn khác sai lầm, thiện tà khác thiện chánh, thiện nửa phần khác thiện trọn vẹn, thiện lớn khác thiện nhỏ, thiện khó khác thiện dễ. Hết thảy đều phải luận xét đến chỗ cùng cực. Nếu làm việc thiện mà không hiểu lý đến cùng, ắt có khi tưởng mình đang làm việc thiện ngờ đâu là tạo ác. Khổ tâm vất vả cũng chỉ uổng phí, vô ích mà thôi.
2.1. Như thế nào là thiện chân thật khác với thiện giả dối?
Xưa có một nhóm nho sinh đến yết kiến hòa thượng Trung Phong, thưa hỏi rằng: “Nhà Phật đưa ra thuyết nhân quả báo ứng như bóng theo hình, nhưng nay thấy người làm thiện mà con cháu họ không được hưng thịnh, lại thấy người nọ làm ác mà con cháu họ sung túc thịnh vượng. Như vậy, thuyết này của nhà Phật không thấy căn cứ”.
Hòa thượng Trung Phong đáp: “Người phàm thì tình nhiễm không thể tẩy rửa cho thanh tịnh được, pháp nhãn chưa mở, cho thiện là ác, cho ác là thiện, thường gặp ở đời. Sao không nhận ra chính bản thân mình thị phi điên đảo, mà ngược lại oán trách Trời đất báo ứng không công bằng?”.
Các nho sinh liền hỏi: “Làm sao có thể nhầm lẫn giữa thiện và ác được?”
Hòa thượng liền bảo họ mỗi người đưa ra ví dụ để phân biệt thiện ác.
Một người nói: “Mắng người, đánh người là ác; cung kính, lễ phép với người là thiện”. Hòa thượng Trung Phong nói: “Chưa chắc”.
Một người khác nói: “Tham lam, ăn cắp là ác, liêm khiết giữ luật là thiện”. Hòa Thượng lại nói: “Chưa chắc”.
Mọi người đều lần lượt nói ra cách hiểu của mình, hòa thượng Trung Phong đều bảo là chưa đúng. Cuối cùng, cả nhóm cùng xin ngài chỉ dạy.
Hòa thượng bảo họ: “Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác để lợi ích cho người khác, lợi ích cho xã hội, đó là thiện. Nếu để lợi ích cho mình thì đó là ác. Nếu mang lại lợi ích cho người, thì dù mắng người, đánh người cũng là thiện. Nếu chỉ vì lợi ích cho mình thì dù cung kính, lễ phép với người cũng là ác.
Vì thế, người làm việc thiện,để lợi ích cho người là việc chung, việc chung là thiện chân thật; để lợi ích cho mình là việc riêng, việc riêng là thiện giả dối. Xuất phát từ tâm chân thành là thiện chân thật, chỉ bắt chước làm theo là thiện giả dối. Không để người khác biết là thiện chân thật;nếu có trù tính, có mục đích [vì mình] mới làm thì là thiện giả dối. Những việc khác các ông cũng theo thế mà tự suy xét”.
2.2. Như thế nào là thiện thẳng khác với thiện cong?
Người đời nay thấy người thận trọng, dễ sai bảo khuất phục thì xưng đó là người thiện và chọn dùng. Thế nhưng, Thánh Hiền thời xưa lại tán dương, dùng những người có chí khí, có tinh thần tiến thủ, thay cho những người an phận giữ mình không chịu vươn lên. Kẻ thận trọng, dễ sai bảo khuất phục, tuy ở trong một thôn xóm được nhiều người xem là tốt nhưng Khổng Tử lại nói người đó là kẻ thù của đạo đức. Cho nên, người thế gian đối với tiêu chuẩn của người thiện, người ác cùng với Thánh Nhân hoàn toàn tương phản.Từ đó suy ra, hết thảy chọn lựa yêu ghét, lấy bỏ của người đời không có gì không sai.
Phân biệt đúng sai về phước thiện, tà ác, họa hại của Thiên địa quỷ thần và thánh nhân đều tương đồng, nhưng lại khác biệt với chọn lựa yêu ghét, lấy bỏ của người đời.
Vì thế, nếu muốn tích đức, quyết định không thể thuận theo [cái muốn] của tai, mắt mình mà phải từ chỗ vi tế khởi tâm động niệm, đem tâm của mình tẩy cho sạch sẽ [mọi điều tà vạy, quyết không để cho ý niệm tà ác khởi lên, làm ô nhiễm tâm thanh tịnh]. Nếu chỉ còn duy nhất một tâm nguyện cứu người giúp đời, đó là thiện thẳng, chỉ cần khởi lên một mảy may tâm niệm nịnh bợ, tự tư tự lợi, ắt đó là thiện cong.Nếu chỉ có duy nhất tâm nguyện yêu thương người, đó là thiện thẳng, chỉ cần khởi lên một mảy may tâm niệm oán hận, chán ghét, không bình đẳng, ắt đó là thiện cong.Nếu chỉ có duy nhất tâm nguyện cung kính người khác, đó là thiện thẳng, chỉ cần khởi lên một mảy may tâm niệm bỡn cợt, ắt đó là thiện cong. Những điểm này cần phải suy xét tỉ mỉ.
2.3. Như thế nào là âm đức khác với dương thiện?
Việc thiện mà người khác biết, đó là dương thiện. Việc thiện mà người khác không biết, đó là âm đức. Tích âm đức thì được trời ban thưởng, còn dương thiện thì được hưởng tiếng tốt. Tiếng tốt đó cũng là phước báo vậy. Nhưng Thiên địa quỷ thần vốn kỵ với danh tiếng. Cho nên người nào được hưởng danh tiếng tốt mà không thực xứng đáng thì thường gặp nhiều tai họa bất ngờ. Còn người nào không có lỗi mà bị oan, chịu tiếng xấu thì con cháu tự nhiên được nhanh chóng phát đạt. Chỗ sai biệt của âm đức và dương thiện rất vi tế, cần phải cẩn thận suy xét.

2.4. Như thế nào là đúng đắn khác với sai lầm?
- Nước Lỗ [vào thời Xuân Thu] có luật định rằng, người nước Lỗ khi bỏ tiền ra để chuộc dân nước Lỗ [bị bắt làm nô lệ] từ các nước chư hầu khác về đều có thể đến quan phủ [địa phương] nhận tiền thưởng. Tử Cống chuộc người về nhưng không chịu nhận tiền thưởng.
Khổng Tử biết chuyện liền chê trách, nói: “Trò Tứ làm sai rồi. Bậc thánh nhân làm việc gì đều [nhắm đến việc] sửa đổi phong tục tập quán [cho tốt hơn], để dẫn dắt dạy dỗ làm mô phạm cho người đời, đâu thể tùy theo ý thích của cá nhân mình mà muốn làm gì thì làm. Nay ở nước Lỗ rất ít người giàu có, đa số là dân nghèo, nếu [chuộc người về rồi] nhận tiền thưởng mà xem là không liêm khiết thì còn có ai dám chuộc người nữa chứ? Từ nay về sau [e rằng sẽ] không còn ai chịu chuộc dân Lỗ [bị bắt làm] nô lệ ở các nước khác về nữa rồi!”
- Lại khi Tử Lộ cứu sống một người suýt chết đuối, người ấy mang một con trâu đến tạ ơn, Tử Lộ nhận lấy. Khổng Tử biết chuyện vui mừng nói: “Từ nay nước Lỗ ắt sẽ có nhiều kẻ [dám liều mình] cứu người chết đuối”.
Nếu theo cách nhìn của người thế tục thì Tử Cống [chuộc người mà] không nhận tiền thưởng là cao cả, còn Tử Lộ [cứu người mà] nhận trâu là thấp hèn. [Thế nhưng] Khổng Tử lại khen Tử Lộ mà chê Tử Cống, cho nên biết rằng việc làm thiện không xét theo lợi ích hiện hành, mà phải xét đến ảnh hưởng của nó; không xét theo lợi ích nhất thời, mà phải xét đến lợi ích lâu dài; không xét theo lợi ích của một người, mà phải xét đến lợi ích của nhiều người.
Nếu việc đang làm đối với hiện hành là thiện, nhưng ảnh hưởng có hại cho người, thì việc đó tưởng là thiện nhưng kỳ thật lại là sai lầm. Nếu việc đang làm đối với hiện hành tuy là bất thiện, nhưng ảnh hưởng của nó có thể cứu người, thì việc ấy tuy có vẻ bất thiện nhưng kỳ thật lại là đúng đắn. Ở đây chỉ lấy một phạm trù là [thiện và bất thiện] mà luận giải, còn những phạm trù khác như việc tuy là phi nghĩa nhưng kỳ thật lại hợp đạo nghĩa, việc tuy là trái lễ nhưng kỳ thật lại hợp đạo lễ, việc tuy là bất tín nhưng kỳ thật lại là tín, việc tuy là không từ ái nhưng kỳ thật lại là từ ái... hết thảy phải suy xét chọn lựa cho rõ ràng.

2.5. Như thế nào là thiện chánh khác với thiện tà?
- Xưa có tể tướng Lã Văn Ý khi mới từ quan về quê, dân chúng khắp nơi trong nước đều hết lòng kính ngưỡng, xem như núi Thái Sơn, như sao Bắc Đẩu. Có một người cùng làng uống rượu say mắng chửi ông, ông không giận, nói với người hầu rằng: “Người ấy say rồi, đừng so đo với hắn”. Rồi đóng cửa lại không quan tâm đến. Qua năm sau, người ấy phạm tội tử hình bị giam vào ngục, Lã Văn Ý biết chuyện lấy làm hối hận, nói: “Phải chi hồi đó ta tính kỹ trước việc sai trái của hắn, bắt giao cho quan phủ trị tội, ắt là hắn phải chịu sự trừng phạt nhỏ mà có thể ngăn ngừa được tội ác lớn. Ta khi ấy chỉ muốn giữ lòng nhân hậu, không ngờ lại nuôi dưỡng cái ác của kẻ ấy đến nỗi thành ra sự việc như hôm nay”. Đó là có lòng thiện mà lại hoá ra làm ác.
- Lại có trường hợp khởi ác tâm mà hoá ra làm việc thiện. Như có nhà kia rất giàu có, gặp năm hạn hán mất mùa, có đám dân cùng khốn cướp lúa thóc nơi chợ búa ngay giữa ban ngày, báo lên quan huyện nhưng quan huyện không giải quyết. Những người kia thấy vậy càng lộng hành hơn, cuối cùng [nhà giàu ấy] liền tự ý bắt giam [trừng trị những những người này], nhờ vậy dân chúng mới được yên ổn. Nếu không làm thế ắt cả vùng đều loạn cả.
- Cho nên, làm việc thiện là chánh, làm việc ác là tà, điều ấy thì ai cũng biết. Nhưng khởi tâm thiện mà làm thành việc ác, đấy là chánh trong tà; khởi tâm ác mà làm thành việc thiện, đấy là tà trong chánh. Những điều như thế không thể không biết.


thay đổi nội dung bởi: TinNguyenHanh, 19-02-2018 lúc 10:58
TinNguyenHanh is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
TinNguyenHanh
Xem hồ sơ
Tìm bài viết khác của TinNguyenHanh
Old 05-02-2018, 11:10   #6
TinNguyenHanh
Member
 
Avatar của TinNguyenHanh
 
Tham gia ngày: Apr 2014
Bài gởi: 126
Thanks: 1
Thanked 113 Times in 52 Posts
2.6. Như thế nào là thiện nửa phần khác với thiện trọn vẹn?
- Kinh Dịch nói: “Điều thiện không tích chứa thì không đủ tạo thành danh thơm tiếng tốt; điều ác không tích chứa thì không đủ gây thành họa diệt thân”. Kinh Thư nói: “Tội ác của nhà Thương như tiền xâu thành chuỗi, [không phải chỉ trong một lúc mà thành]”. Cũng như việc tích trữ đồ vật vào trong kho chứa, nếu siêng năng tích chứa ắt có ngày kho sẽ đầy; nếu lười biếng, giải đãi không thường tích trữ ắt kho không thể đầy được. Đó là một cách giải thích về thiện nửa phần và thiện trọn vẹn.
- Lại nữa, ngày xưa có một cô gái đến chùa, muốn cúng dường nhưng không có nhiều tiền, chỉ còn vỏn vẹn 2 đồng xu, liền mang ra cúng hết cho chùa. Vị tăng trụ trì thấy vậy đích thân làm lễ sám hối cho cô. [Nhờ công đức ấy, không lâu sau] cô được tuyển vào cung vua, thụ hưởng giàu sang phú quý. Cô lại viếng chùa, mang theo một ngàn lượng bạc đến cúng dường. Vị tăng trụ trì chỉ sai đồ đệ làm lễ hồi hướng rồi thôi. Cô ấy liền hỏi: “Ngày trước con cúng dường chỉ có 2 đồng xu, thầy đích thân làm lễ sám hối cho con. Nay con cúng dường đến cả ngàn lượng bạc mà thầy không tự thân làm lễ hồi hướng là vì sao?”
Thầy trụ trì đáp: “Số tiền trước đây tuy ít nhưng tâm cúng dường rất chân thành, nếu lão tăng này không đích thân làm lễ sám hối thì không xứng với công đức ấy. Nay số tiền cúng dường tuy nhiều, nhưng tâm cúng dường không được chí thiết như trước, ta bảo người làm lễ sám giúp cô cũng đã đủ rồi”.
Như thế, cúng dường một ngàn lượng bạc [nhưng thiếu tâm thành thì] vẫn chỉ là việc thiện nửa phần, mà cúng dường chỉ 2 đồng xu [với tâm chí thành] được xem là thiện trọn vẹn.
- [Lại xét chuyện] Chung Ly truyền pháp luyện đan cho Lã Tổ, biến được sắt thành vàng có thể cứu đời. Lã Tổ hỏi: “Cuối cùng rồi vàng có trở lại thành sắt không?” Chung Ly đáp: “Sau 500 năm sẽ trở lại thành sắt”. Lã Tổ nói: “Như vậy sau 500 năm ắt sẽ làm hại người, tôi không muốn làm như thế đâu”. Chung Ly nói: “Người tu tiên nhất thiết phải tích chứa đủ 3.000 công đức. Nhưng chỉ một lời này của ông đã đủ 3.000 công đức và được xem là thiện trọn vẹn rồi”. Đây cũng là một cách giải thích khác.
- Hơn nữa làm việc thiện mà tâm không chấp trước vào điều thiện đó, thì dù thành tựu ở bất kỳ mức độ nào cũng được xem là thiện trọn vẹn. Nếu trong tâm chấp trước vào điều thiện đó, thì dù suốt đời nỗ lực cố gắng tu thiện vẫn chỉ là việc thiện nửa phần. Ví như dùng tài vật giúp người,nếu trong không thấy mình cho, ngoài không thấy người nhận, giữa không thấy vật được cho, mới gọi là Tam Luân Thể Không,cũng gọi là nhất tâm thanh tịnh.Bố thí được như vậy thì chỉ một đấu thóc cũng trồng được phước báo vô lượng vô biên, một đồng tiền cũng có thể tiêu trừ được ngàn kiếp nghiệp tội. Nếu làm thiện mà ghi nhớ trong lòng, thì dù bố thí ngàn lượng vàng, phước đức vẫn không trọn vẹn. Đây cũng là một cách giải thích về thiện nửa phần và thiện trọn vẹn.

2.7. Như thế nào là thiện lớn khác với thiện nhỏ?
Thuở xưa, Vệ Trọng Đạt làm quan ở Hàn Lâm viện bị tiểu quỷ bắt đưa đến âm ty, Diêm Vương sai phán quan trình lên sổ ghi chép thiện ác của Vệ Trọng Đạt. Phán quan liền cầm đến thì thấy sổ ghi việc ác choán đầy cả sân, còn sổ ghi việc thiện thì chỉ có một quyển, được cuộn lại nhỏ như chiếc đũa. Diêm Vương sai đem cân [để xem cái nào nặng hơn] thì sổ ghi việc ác choán đầy cả sân tưởng nặng lại nhẹ,còn sổ ghi việc thiện nhỏ như chiếc đũa tưởng nhẹ lại nặng.
Vệ Trọng Đạt thưa hỏi: “Tôi năm nay chưa đến 40 tuổi, sao có thể tạo ra nhiều việc ác đến như thế được?”
Diêm Vương đáp: “Một niệm bất chánh khởi lên đã là ác, không đợi đến lúc ông thực sự làm”.
Nhân đó, Trọng Đạt lại hỏi xem trong sổ cuộn kia ghi chép những gì. Diêm Vương đáp: “Triều đình trước đây muốn làm một công trình lớn, huy động rất nhiều dân công tu sửa cầu đá ở Tam Sơn, ông có dâng sớ can ngăn việc ấy. Trong đó ghi lại bản sớ của ông”.
Trọng Đạt thắc mắc: “Tuy tôi có can ngăn thật, nhưng triều đình không nghe theo thì việc ấy nào có ích lợi gì, làm sao lại có tác dụng mạnh mẽ [hơn tất cả những điều xấu ác] như vậy?”
Diêm Vương đáp: “Triều đình tuy không nghe theo, nhưng một ý niệm khởi lên là vì vạn dân. Nếu như triều đình nghe theo thì tác dụng của việc thiện ấy lại càng mạnh hơn”.
Cho nên, nếu tâm niệm hướng về khắp cả thiên hạ thì việc thiện tuy nhỏ cũng thành lớn; nếu chỉ vì riêng bản thân mình thì việc thiện dù có làm nhiều điều to lớn cũng thành nhỏ.

2.8. Như thế nào là thiện khó khác với thiện dễ?
Các vị Nho gia ngày trước dạy rằng: “Muốn tự chế phục bản thân thì trước tiên phải khởi đầu từ chỗ khó chế phục nhất”. Bàn về việc “để tu thành người nhân”, Khổng Tử cũng nói: “Trước tiên phải khởi đầu từ chỗ khó”.
[Muốn khởi đầu từ chỗ khó] ắt phải [học theo] như ông họ Thư ở Giang Tây, bỏ ra cả 2 năm lương bổng ít ỏi của mình để thay người khác nộp tiền phạt lên quan phủ, giúp cho vợ chồng người ấy thoát khỏi cảnh chia lìa. Lại như ông họ Trương ở Hàm Đan, đem hết số tiền dành dụm khó nhọc trong 10 năm để thay người khác nộp tiền chuộc thân, cứu sống được vợ con người ấy. Những người này đều có thể buông xả được điều mà người thường khó buông xả.
Lại như ông già họ Cận ở Trấn Giang, tuy tuổi già vẫn chưa có con, nhưng không chấp nhận lấy một cô gái nhỏ tuổi làm thiếp mà trả lại cho gia đình người hàng xóm.
Đó là [những trường hợp] nhẫn chịu được điều khó nhẫn chịu, nên được trời ban phước hậu.
Thông thường, những người giàu có, quyền thế thì việc tạo công đức thật dễ dàng. Nhưng nếu dễ mà không chịu làm, đó là tự hủy hoại chính mình. Những người nghèo khổ muốn làm việc tạo phước đức đều rất khó khăn, nhưng khó khăn mà có thể làm được, ấy mới là điều rất đáng quý.

3. Mười điều làm thiện
Việc tùy duyên cứu giúp người khác có muôn hình vạn trạng, nhưng lược nói theo những điểm đại cương thì có thể phân ra mười loại:
1. Cùng người khác làm việc thiện.
2. Giữ lòng yêu kính đối với người khác.
3. Giúp thành tựu những điều tốt đẹp của người khác.
4. Khuyên bảo người khác làm việc thiện.
5. Cứu người khi nguy cấp.
6. Khởi xướng, xây dựng những việc lợi ích lớn lao cho cộng đồng.
7. Bỏ tiền của làm việc tạo phước.
8. Ủng hộ và bảo vệ, giữ gìn Chánh pháp.
9. Kính trọng các bậc tôn túc, trưởng thượng.
10. Khuyên người khác phải biết tôn trọng sự sống, thương yêu quý tiếc mạng sống của muôn loài.
3.1. Thế nào là cùng người khác làm việc thiện?
Thuở xưa vua Thuấn ở chỗ bến sông, nhìn thấy những người đánh cá đều tranh nhau chỗ nước sâu nhiều cá, khiến cho những người già yếu [không đủ sức tranh giành] phải bắt cá ở những nơi nước cạn hay nước chảy xiết. Vua Thuấn động lòng thương xót, liền đến nơi ấy cùng mọi người đánh bắt cá. Khi thấy những người có ý tranh giành, ngài che giấu việc xấu ấy, chẳng nói gì đến. Khi thấy những người biết nhường nhịn người khác, ngài hết lời ngợi khen, tán dương, rồi cũng làm theo giống như người ấy. Vua Thuấn làm như vậy được một năm thì mọi người ở đó đều nhường nhịn cho nhau những chỗ nước sâu nhiều cá.
Thông minh sáng suốt như vua Thuấn, nào có khó gì việc nói ra một lời dạy dỗ những người kia [việc tốt nên làm]? Thế mà ngài không dùng lời dạy dỗ, lại dùng chính việc làm của tự thân để cảm hóa, thay đổi người khác, quả thật là một tấm lòng hiền lương thương người, chấp nhận khó nhọc.
Chúng ta sống vào đời suy mạt, đừng lấy điểm mạnh của mình mà chèn ép kẻ khác, đừng lấy chỗ thiện của mình mà so sánh với kẻ khác [để tự cho mình là hơn], đừng cậy chỗ nhiều tài năng của mình mà gây khó cho người khác. Nên tự kiểm soát, không phô bày chỗ tài trí của bản thân, cho dù bản thân có tài phải thường nghĩ rằng mình không có tài năng gì hết. Thấy người khác có chỗ lỗi lầm khiếm khuyết, nên bao dung mà che giấu giúp họ, một mặt là tạo cơ hội cho họ có thể hối cải lỗi lầm, một mặt lại khiến họ có sự e dè kiêng sợ mà không dám buông thả phóng túng. Thấy người khác có chút ưu điểm nhỏ dùng được, hoặc việc thiện nhỏ có thể chọn lấy, thì lập tức xả bỏ lập trường bản thân mà làm theo đó [dù việc thiện chúng ta làm so với họ vẫn là lớn hơn, tốt hơn], lại nên hết lời ngợi khen xưng tán, truyền rộng sự tốt đẹp ấy đến với nhiều người khác.
Từ sáng đến tối, mỗi một lời nói, mỗi một việc làm đều không vì nghĩ đến bản thân, hết thảy đều chỉ vì tất cả chúng sinh mà làm một tấm gương tốt. Đó chính là chỗ độ lượng của bậc đại nhân, luôn vì lợi ích cho thiên hạ [mà không nghĩ riêng cho bản thân mình].

3.2. Thế nào là giữ lòng yêu kính người khác?
Bậc quân tử với kẻ tiểu nhân, nếu theo hình dáng bên ngoài mà xét thì rất dễ lẫn lộn, chẳng khác nhau mấy, nhưng chỉ duy nhất khi xét đến chỗ tồn tâm thì thiện ác thật khác nhau, rõ ràng phân biệt như trắng với đen, không thể nhầm lẫn. Cho nên nói rằng: “Bậc quân tử sở dĩ khác biệt với người tầm thường chỉ là ở chỗ tồn tâm”.
Chỗ tồn tâm của người quân tử chính là luôn giữ lòng tôn kính, thương yêu đối với người khác. Nói chung, trong muôn người ắt có kẻ thân thích người sơ giao, kẻ quý hiển người hèn kém, kẻ trí tuệ người ngu si, kẻ hiền lương người hư hỏng, phẩm chất cao thấp tốt xấu chẳng ai giống ai, nhưng tất cả đều là đồng loại với ta, cùng một bản thể như ta, sao có thể không thương yêu, kính trọng?
Biết giữ lòng yêu kính muôn người, đó chính là yêu kính thánh hiền. Có thể thấu hiểu được chí hướng của muôn người, đó chính là thấu hiểu được chí hướng của bậc thánh hiền. Vì sao vậy? Vì chí hướng của bậc thánh hiền là mong muốn cho nơi nơi, người người đều đạt được những điều họ mong muốn. Chúng ta cùng chung [chí hướng đó] mà thương yêu kính trọng, giúp cho muôn người đều được an ổn, đó chính là vì các bậc thánh hiền mà mang lại sự an ổn cho người đời.

3.3. Thế nào là giúp thành tựu điều tốt đẹp của người khác?
Khi ngọc còn trong quặng đá, mang vứt bừa bãi ắt chẳng có giá trị gì hơn viên ngói hòn sỏi, nhưng nếu được mài giũa đúng cách, ắt trở thành ngọc khuê, ngọc chương quý giá. Vì thế, khi thấy người khác làm được một việc thiện, hoặc gặp người có chí hướng tốt đẹp, hoặc tư chất có thể hướng thiện, đều nên hết lòng dẫn dắt chỉ bày, giúp cho người ấy thành tựu được những điều tốt đẹp. Hoặc vì người ấy mà ngợi khen, trợ lực, hoặc giúp sức duy trì [những điều tốt đẹp]. Nếu có ai vu khống người ấy, nên vì họ mà làm rõ, hoặc cùng chia sẻ nhận lấy những hủy báng, công kích; cần giúp sức cho đến khi người ấy được thành tựu vững vàng mới thôi. Như thế mới có thể được xem là tận tâm tận lực.
Người đời nói chung thường không ưa thích những ai khác biệt với mình. Người hiền lương trong thôn xóm thường rất ít, mà những kẻ xấu ác lại rất nhiều. Cho nên, người hiền lương ở đời thường rất khó tự mình đứng vững. Hơn nữa, những kẻ tài ba xuất chúng thường cương trực thẳng thắn, không quá chú trọng bề ngoài và những điều vụn vặt, do đó thường dễ bị người đời chỉ trích. Vì thế, việc thiện ở đời thường dễ thất bại, mà người làm việc thiện lại thường bị người đời chê bai phỉ báng, chỉ những người nhân nghĩa, đức hạnh mới hiểu rõ được sự tình mà ra sức giúp đỡ, trợ lực [cho người làm việc thiện được thành công].Công đức giúp thành tựu điều tốt đẹp của người khác thật là lớn lao vô cùng.

3.4. Thế nào là khuyên bảo người khác làm việc thiện?
Đã sinh ra làm người, ai ai cũng sẵn có lương tâm. Nhưng đường đời bôn ba xuôi ngược nhiều khó khăn, nhọc nhằn, nhiều thứ cám dỗ nên rất dễ đắm chìm sa đọa [vào nẻo xấu ác]. Vì thế, khi giao tiếp ở đời, ta nên khéo léo vận dụng phương tiện để giúp người khác trừ bỏ những [nhận thức] sai lầm mê muội. Ví như vì kẻ đang say trong giấc mộng đêm dài mà giúp cho nhất thời tỉnh mộng, lại ví như vì kẻ bị vây hãm đã lâu trong khổ đau phiền não mà cứu thoát đưa đến nơi mát mẻ trong lành. Ân huệ đó thật lớn lao không gì bằng.
Hàn Dũ nói: “Khuyên dạy người khác trong nhất thời thì dùng lời nói, khuyên dạy người đến trăm đời sau thì viết sách”.Nếu so với “lấy thân làm gương” như vua Thuấn thì khuyên bằng lời hay bằng chữ tuy là có hình thức khác nhau, nhưng giống như tùy bệnh cho thuốc, nếu áp dụng đúng lúc sẽ đạt được hiệu quả, nên không thể bỏ qua. [Gặp người ngang bướng ta dùng thân làm gương, gặp người nhu nhược ta dùng lời khuyên bảo]. Nhưng nếu có điều không đáng nói mà lại nói ra, người không nên dạy mà lại dạy thì phải quay lại tự xét trí tuệ của mình [để rút kinh nghiệm].

3.5. Thế nào là cứu người khi nguy cấp?
Người đời ai cũng có những lúc nguy cấp hoạn nạn. Ngẫu nhiên mà ta gặp trường hợp người bị nạn thì coi sự đau khổ của người cũng như là trên thân mình có ung độc mà mau mau cứu giúp. Hoặc dùng lời nói minh oan cho người, hoặc tìm đủ mọi phương cách mà cứu giúp họ khỏi sự thống khổ triền miên.
Thôi Tử nói: “Ân huệ không phải quý ở sự nhiều ít, mà giúp người vào lúc nguy cấp mới là quan trọng”. Quả thật là lời nhân hậu biết bao!

3.6. Thế nào là khởi xướng, xây dựng những việc lợi ích lớn lao cho cộng đồng?
Ở phạm vi nhỏ thì như trong một xóm thôn, ở phạm vi lớn hơn thì như trong một quận huyện, nếu thấy bất kỳ việc gì có lợi ích chung thì rất nên khởi xướng, xây dựng. Đó là những việc như đào mương dẫn nước, đắp đê ngăn lũ, hoặc tu sửa đường sá, cầu cống để thuận tiện cho kẻ đi đường, hoặc cung cấp cơm ăn nước uống để cứu giúp người lúc đói khát... Đối với những việc ấy, nên tùy hoàn cảnh mà khuyên bảo, khuyến khích mọi người cùng nhau góp sức làm. [Khi đã làm thì] chẳng sợ kẻ khác hiềm nghi, chẳng nề hà gian khó.

3.7. Thế nào là bỏ tiền của làm việc tạo phước?
Sự tu tập theo đạo Phật có hàng vạn thiện hạnh, trong đó hạnh bố thí được xem là trước nhất. Nói đến hạnh bố thí, chỉ cần một từ buông xả là trọn đủ. Bậc đạt đạo thì trong tâm buông xả sáu căn, bên ngoài buông xả sáu trần, cho đến hết thảy những vật sở hữu của mình, không có gì là không buông xả. Người chưa làm được đến mức ấy thì trước tiên phải buông xả từ bố thí tiền bạc. Người đời coi cơm ăn áo mặc là mạng sống, xem tiền tài là quan trọng nhất. Chúng ta từ nơi chỗ [quan trọng nhất] đó mà buông xả thì bên trong trừ được sự keo kiệt bủn xỉn của chính mình, bên ngoài cứu giúp được người nguy cấp.
Ban đầu có thể còn miễn cưỡng, nhưng về sau rồi sẽ thấy tự nhiên. Bố thí là cách tốt nhất để bỏ ích kỷ, trừ keo kiệt.


thay đổi nội dung bởi: TinNguyenHanh, 19-02-2018 lúc 11:21
TinNguyenHanh is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
TinNguyenHanh
Xem hồ sơ
Tìm bài viết khác của TinNguyenHanh
Old 05-02-2018, 11:12   #7
TinNguyenHanh
Member
 
Avatar của TinNguyenHanh
 
Tham gia ngày: Apr 2014
Bài gởi: 126
Thanks: 1
Thanked 113 Times in 52 Posts
3.8. Thế nào là ủng hộ và bảo vệ, giữ gìn Chánh pháp?
Chánh pháp là con mắt sáng giúp chúng sinh muôn đời có thể nhìn thấy [con đường thoát khổ]. Nếu không có Chánh pháp, con người làm sao có thể tham dự giúp đỡ cho thiên địa đại tự nhiên?Làm sao có thể thành tựu giúp đỡ cho vạn vật và xử lý tốt đẹp mối quan hệ giữa người và vạn vật Thiên địa quỷ thần? Làm sao có thể thoát ly khỏi mọi sự mê hoặc, trói buộc trong đời sống thế tục? Làm sao có thể nhập thế tu sửa cải thiện cuộc đời, xuất thế vượt thoát luân hồi sinh tử, siêu phàm nhập Thánh?
Vì thế, mỗi khi gặp những nơi thờ kính các bậc hiền thánh, những kinh sách giáo pháp, chúng ta đều phải cung kính tôn trọng mà sửa sang, trang hoàng cho tốt đẹp. Đến như việc nêu cao và rộng truyền Chánh pháp, báo đáp ơn Phật thì lại càng phải cổ vũ khích lệ.

3.9. Thế nào là kính trọng các bậc tôn túc, trưởng thượng?
Nói đến các bậc tôn túc, trưởng thượng thì trong phạm vi gia đình có cha mẹ, anh chị, trên phạm vi đất nước có các vị lãnh đạo quốc gia, cho đến trong phạm vi toàn xã hội thì hết thảy những người cao tuổi, người đức độ, người ở cương vị cấp trên hoặc người có sự hiểu biết cao rộng, chúng ta đều nên quan tâm tôn kính phụng sự.
Khi phụng sự cha mẹ ở nhà, phải hết sức giữ lòng yêu kính, dáng vẻ phải vui tươi, nói năng phải nhỏ nhẹ từ tốn. Tập quen như vậy sẽ trở thành tính cách tự nhiên, tạo ra hòa khí, ấy là yếu tố căn bản cảm ứng với lòng trời.
Khi bước ra xã hội phụng sự đất nước, dù làm bất cứ việc gì cũng phải tự mình cẩn trọng, không vì cấp trên không biết mà tự ý buông thả làm bậy. Nếu ở cương vị xét xử người khác [phải công bằng, minh bạch], không vì cấp trên không biết mà tự ý ra oai hà hiếp người khác. Người xưa có câu: “Phụng sự người trên như phụng sự trời vậy”. Đó là những chỗ liên quan chặt chẽ đến âm đức [của con người]. [Không làm kẻ thù của quốc gia, không nói xấu lãnh đạo đất nước, không trốn thuế nhà nước và không vi phạm pháp luật]. Cứ xem gia tộc của những bậc trung hiếu, ắt thấy rõ không nhà nào là không có con cháu hưng thịnh, phát đạt lâu dài. Cho nên nhất thiết phải cẩn thận để ý điểm này.

3.10. Thế nào là biết tôn trọng sự sống, thương yêu quý tiếc mạng sống của muôn loài?
Con người nhờ có lòng trắc ẩn mới xứng đáng được gọi là người. Muốn có lòng nhân hậu, trước tiên phải có lòng trắc ẩn; muốn tích chứa phước đức, trước tiên phải tích chứa lòng trắc ẩn. Sách Chu lễ nói: “Trong tháng đầu xuân, tế lễ không được dùng những con vật giống cái”.Mạnh Tử nói: “Người quân tử lánh xa chỗ bếp núc”. Những điều như thế đều là để giữ gìn tấm lòng trắc ẩn, [biết thương tiếc sự sống của muôn loài]. Cho nên, người xưa có bốn loại thịt tránh không ăn. Đó là: (1) thịt con vật nghe tiếng kêu khi bị giết, (2) thịt con vật nhìn thấy khi bị giết, (3) thịt con vật do chính mình nuôi dưỡng, (4) thịt con vật vì mình mà bị giết.
Người học đạo nếu chưa thể hoàn toàn dứt bỏ việc ăn thịt thì cũng nên khởi đầu từ việc tránh ăn những loại thịt như trên, dần dần tu tiến, tâm từ bi được nuôi dưỡng lớn mạnh hơn, khi ấy không những có thể giữ giới không giết hại, mà còn bảo vệ hết thảy các loài sâu bọ, côn trùng, động vật... vì chúng đều có mạng sống. Y phục ta mặc đã phải nấu chết biết bao con tằm để lấy tơ. Bát cơm ta ăn phải cuốc đất giết hại bao nhiêu côn trùng. Ta phải luôn nghĩ để nuôi sống ta thì không biết bao nhiêu mạng sống của chúng đã bị sát hại. Hiểu được như thế thì mới thấy rằng sự hoang phí lương thực, vật dụng... cũng không khác gì tội giết hại. Cho đến những việc như lỡ tay làm chết, giẫm chân đoạt mạng [côn trùng], thật không thể biết được đã nhiều đến mức nào, nên phải hết sức phòng tránh. Thơ cổ có câu rằng:
Lưu hạt cơm thừa, thương chuột đói,
Giữ mạng thiêu thân, chẳng đốt đèn.
Thật nhân từ biết bao!
Thiện hạnh có rất nhiều, không thể kể hết ra được, nhưng từ nơi mười điều vừa nói trên đây mà suy xét rộng ra, thì muôn ngàn công đức đều có thể đầy đủ cả.




Phần 4: Giữ đức khiêm hạ (Hiệu quả của đức tính khiêm tốn)

1. Lời dạy của thánh nhân

Kinh Dịch dạy: “Đạo Trời là rút bớt chỗ dư thừa mà bồi đắp chỗ thiếu hụt. Quy luật của đất đai là chỗ cao lồi thì bị xói mòn còn chỗ trũng thấp thì được đắp bồi. Luật quỷ Thần thì trừng phạt kẻ ngạo mạn, ban phước cho người khiêm tốn. Lòng người thì ghét kẻ tự mãn và yêu thích người khiêm hạ”.
[Trời đất, quỷ thần với con người đều chuộng đức khiêm hạ,] vì thế nên [trong kinh Dịch] chỉ riêng một quẻ Khiêm là cả 6 hào đều tốt lành.
Kinh Thư nói: “Tự mãn chuốc lấy tổn hại, khiêm hạ được ích lợi”.
Tôi đã nhiều lần cùng những người khác đi thi, mỗi khi gặp kẻ học trò nghèo sắp đỗ đạt đều thấy có dáng vẻ khiêm hạ lộ rõ ra bên ngoài.

2. Những gương khiêm hạ được phước

2.1. Thật thà chất phác, cung kính vâng chiều, thận trọng dè dặt, bị nhục không cãi

Vào năm Tân Mùi (1571), trong số Cử nhân về kinh đô dự thi thì nhóm đồng hương Gia Thiện chúng tôi có 10 người. Đinh Kính Vũ là người nhỏ tuổi nhất, tính tình hết sức khiêm hạ. Tôi có nói với Phí Cẩm Ba: “Anh này năm nay ắt sẽ thi đỗ”.
Họ Phí hỏi lại: “Làm sao biết được?”
Tôi đáp: “Chỉ người khiêm hạ mới được nhận lãnh phước báo. Anh xem trong số chúng ta có ai trung hậu, thành thật, giữ chữ tín, nhường nhịn không tranh giành như Kính Vũ chăng? Có ai giữ lòng cung kính vâng chiều, không cố chấp thành kiến của mình, hết lòng khiêm hạ như Kính Vũ chăng? Có ai bị người hà hiếp mà không nói một câu, bị người chê bai không cần biện giải như Kính Vũ chăng? Người được như thế ắt trời đất quỷ thần thường trợ giúp, sao có thể không phát lên được?”
Đến khi yết bảng, quả nhiên Kính Vũ trúng tuyển.

2.2. Khiêm hạ nghiêm nghị, thản nhiên nhận lỗi
Vào năm Đinh Sửu (1577) tôi về kinh đô, cùng với Phùng Khai Chi là đồng hương, nhận thấy ông này tính tình khiêm hạ, dung mạo nghiêm trang, các tập khí từ thuở nhỏ đã không còn nữa. Khi ấy có Lý Tề Nghiêm là người bạn tốt, tính tình thẳng thắn, thường nhiều lần công khai phê phán chỉ trích những điều sai lầm của Khai Chi, chỉ thấy anh ta bình tĩnh lắng nghe và nhận chịu, chưa từng có một lời phản đối. Khi ấy tôi có nói với Khai Chi rằng: “Phước báo đều có căn nguyên, tai họa cũng có nguồn gốc từ trước. Tâm mình thực sự khiêm hạ ắt trời sẽ giúp. Năm nay nhất định anh sẽ thi đỗ”. Quả nhiên đúng như vậy.
Ông Triệu Dụ Phong, tên Quang Viễn, là người huyện Quan thuộc tỉnh Sơn Đông, tuổi còn trẻ đã thi đỗ Cử nhân ở kỳ thi Hương, nhưng rất lâu sau [thi Hội nhiều lần] chẳng đỗ. Cha ông được bổ làm quan Chủ Bạ ở huyện Gia Thiện, ông theo cha đi nhậm chức. Vì ngưỡng mộ [văn tài] của Tiền Minh Ngô nên ông mang bài văn của mình đến cho họ Tiền xem. Tiền Minh Ngô xem qua rồi liền sổ toẹt hết cả bài. Triệu Dụ Phong chẳng những không giận mà còn hết lòng khâm phục, nhanh chóng tự sửa đổi. Năm sau ông liền thi đỗ.

2.3. Phước sắp đến thì trí tuệ mở
Vào năm Nhâm Thìn (1592), tôi đến kinh thành triều kiến hoàng đế, nhân lúc đó được gặp Hạ Kiến Sở. Tôi thấy ông này thần khí khoan thư không tự mãn, tâm ý khiêm hạ, vẻ nhún nhường lộ rõ ai cũng thấy. Lúc về, tôi có nói với bạn bè rằng: “Thông thường khi trời sắp giúp một người nào hưng khởi thì khi chưa ban phúc đã trước hết làm cho người ấy phát khởi trí tuệ. Một khi trí tuệ phát khởi thì người hư huyễn bỡn cợt sẽ trở nên chân thành tín thật, người phóng túng buông lung sẽ tự biết kiềm chế, thu liễm. Ông Kiến Sở hòa nhã hiền lành như thế, ấy là đã được trời khai mở [trí tuệ] rồi, [ắt nay mai sẽ được ban phúc]”.
Đến khi yết bảng, Hạ Kiến Sở quả nhiên thi đỗ.

2.4. Tạo công đức không cần tốn tiền, giữ niệm thiện trong lòng là đủ
Trương Úy Nham người huyện Giang Âm, học nhiều biết rộng, có danh trong giới văn chương. Vào năm Giáp Ngọ (1594), ông về Nam Kinh thi Hương, ở trọ trong một ngôi chùa. Đến khi niêm yết kết quả thi không thấy tên mình trúng tuyển, ông hết lời chửi mắng quan chủ khảo, cho là có mắt không tròng. Bấy giờ có một đạo sĩ đứng gần đó bật cười. Họ Trương lập tức quay sang nổi cơn thịnh nộ với đạo sĩ.
Đạo sĩ nói: “Văn của ông chắc chắn là không hay rồi”.
Họ Trương càng sôi giận hơn, quát nạt: “Ông chưa từng đọc văn của tôi, sao biết là không hay?”
Đạo sĩ nói: “Tôi nghe rằng, người làm văn quý nhất ở chỗ tâm ý khí chất ôn hòa bình thản, nay nghe ông chửi mắng, [tâm ý khí chất] không có chút ôn hòa bình thản gì cả thì văn làm sao có thể hay?”
Họ Trương nghe như thế hốt nhiên khâm phục, liền thi lễ xin được chỉ dạy. Đạo sĩ nói: “Việc thi đỗ hay không đều do số mạng. Số mạng của mình không đáng đỗ đạt thì dù văn hay cũng chẳng ích gì. Nên tự thay đổi chính mình mới được”.
Họ Trương hỏi: “Đã do số mạng định sẵn thì làm sao thay đổi?”
Đạo sĩ nói: “Tạo ra số mạng là trời, mà an lập số mạng là chính mình. Nỗ lực làm thiện, rộng tích âm đức thì có phước đức nào mà không cầu được?”
Họ Trương nói: “Tôi chỉ là anh học trò nghèo, làm sao làm [việc thiện]?”
Đạo sĩ nói: “Việc làm thiện, tích âm đức đều từ nơi tâm mình mà ra. Thường giữ tâm [làm thiện] thì được vô lượng công đức. Chẳng hạn như việc giữ tâm khiêm tốn nhún nhường nào có tốn kém tiền bạc gì, sao ông không biết tự xem lại mình, còn chửi mắng quan chủ khảo?”
Trương Úy Nham từ đó theo lời dạy, cố tự sửa đổi, bỏ lòng kiêu mạn mà giữ đức khiêm hạ, tâm thiện ngày càng tăng trưởng, đức hạnh ngày một sâu dày. Năm Đinh Dậu (1597), ông nằm mơ thấy đi đến một căn phòng trên cao, nhìn thấy một quyển sổ ghi chép tên người thi đỗ, trong đó có nhiều hàng bỏ trống, liền hỏi một người đứng bên cạnh rằng: “Bản danh sách chép tên người thi đỗ khoa này, sao lại thiếu nhiều tên như vậy?” Người ấy đáp: “Việc chọn người đỗ đạt, ở cõi âm cứ 3 năm lại một lần khảo xét so sánh, những người tu tích âm đức, không phạm lỗi lầm mới có tên trong đó. Những dòng bị trống đó đa phần đều là những người vốn ngày trước đáng được đỗ đạt, nhưng vì gần đây đức hạnh kém cỏi nên bị xóa đi”. Sau đó, người ấy lại chỉ vào một dòng còn trống trong sổ và nói: “Trong ba năm qua ông luôn biết giữ mình thận trọng, có thể được ghi tên vào đây, mong ông biết tự lo cho mình”.
Khoa thi năm ấy quả nhiên Trương Úy Nham thi đỗ, xếp hạng thứ 105.

3. Khiêm tốn lòng mở rộng, rộng lượng chứa phước nhiều
Do những điều như trên mà biết được rằng, trên đầu ba thước nhất định có thần minh soi xét. Việc tránh hung gặp cát đều do chính mình, cần phải biết tồn tâm, kiểm soát mọi việc làm của mình.Đừng bao giờ đắc tội với Thiên địa quỉ Thần [chính là không được có một tơ hào bất thiện], mà còn phải lặng tâm, tiết chế thúc liễm bản thân, khiến cho trời đất quỷ thần đều cảm động trợ giúp, đấy chính là cơ sở để hưởng phước báu. Người nào tính khí cao ngạo tự mãn thì lòng độ lượng không nhiều, nếu như có được phát đạt cũng không thể thụ hưởng [được phước báo lâu dài]. Người có chút tri thức hiểu biết ắt nhất định không đành lòng làm cho tấm lòng độ lượng của mình thu hẹp lại, tự đánh mất đi phước báu như thế. Huống chi sự khiêm tốn là mở ra cơ hội tiếp nhận sự chỉ giáo của người khác, ích lợi vô cùng. Nhất là đối với những người đi theo con đường thi cử [cầu công danh sự nghiệp], khiêm tốn là điều không thể thiếu được.

4. Ước mong như gốc rễ, có rễ mới có quả
Lời xưa có câu: “Có chí hướng công danh, ắt được công danh; chí hướng sang giàu, ắt được sang giàu”. Người có chí hướng như cây có gốc rễ. Muốn tạo lập cơ sở cho chí hướng này phải luôn luôn giữ lòng khiêm hạ nhún nhường, vận dụng khéo léo vô số phương tiện [mà làm việc thiện], tự nhiên sẽ cảm động thấu cả đất trời. Cho nên, phước đức đều do chính mình tự tạo.
Người đời nay muốn cầu thi cử đỗ đạt,ngay từ đầu đã không có chí hướng chân thật, bất quá chỉ là sự hứng khởi trong nhất thời mà thôi. Lúc có hứng khởi thì mong cầu, lúc không còn hứng thú nữa thì thôi. Mạnh Tử nói [với vua nước Tề]: “Nhà vua hết sức yêu thích âm nhạc [để có thể làm cho dân cùng được vui thì] nước Tề sắp thịnh vượng rồi”. Tôi đối với con đường công danh khoa bảng cũng giống như vậy.


thay đổi nội dung bởi: TinNguyenHanh, 19-02-2018 lúc 11:22
TinNguyenHanh is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
TinNguyenHanh
Xem hồ sơ
Tìm bài viết khác của TinNguyenHanh
Old 05-02-2018, 11:15   #8
TinNguyenHanh
Member
 
Avatar của TinNguyenHanh
 
Tham gia ngày: Apr 2014
Bài gởi: 126
Thanks: 1
Thanked 113 Times in 52 Posts
Quyển 2: CHUYỆN DU TỊNH Ý GẶP THẦN BẾP

1. Làm lành gặp dữ?
Trong khoảng niên hiệu Gia Tĩnh triều Minh, có người họ Du ở tỉnh Giang Tây, tên húy là Đô, tên tự là Lương Thần (sinh năm 1525), kiến thức uyên bác lại có nhiều tài năng. Từ năm 18 tuổi (1542) đã thi đỗ tú tài, mỗi lần vượt qua các kỳ thi đều có thứ hạng cao.
Thời tuổi trẻ, nhà nghèo nên Du Đô mở lớp nhận học trò, lại cùng các bạn đồng học khoảng hơn mười người thành lập nhóm Văn Xương Xã, [khuyến khích nhau] thực hành những việc như giữ gìn kính tiếc [giấy có] chữ viết, phóng sinh cứu vật, răn ngừa những sự tham dâm, giết hại, nói dối... Thực hành như vậy được nhiều năm. Trước sau ông đã tham dự đến 7 khoa thi Hương nhưng đều không đỗ [lên cử nhân].
Ông Du Đô sinh được 5 đứa con trai thì có đến 4 đứa bị bệnh chết sớm. Còn lại đứa thứ ba rất thông minh tuấn tú, dưới lòng bàn chân trái có 2 nốt ruồi, vợ chồng ông hết sức yêu quý. Đến năm lên 8 tuổi, đứa con trai ấy đi chơi trong làng bỗng lạc mất không về, chẳng biết đi đâu. Ông sinh được 4 đứa con gái cũng chỉ còn lại một. Vợ ông thương khóc con đến nỗi mù cả hai mắt.
Ông Du Đô vất vả quanh năm nhưng ngày càng nghèo túng hơn. Ông thường tự xét mình không phạm tội lỗi gì lớn, chẳng biết vì sao bị trời trừng phạt nặng nề bi thảm đến như vậy.
Từ năm ông Du Đô được hơn 40 tuổi (1564), mỗi năm đến cuối tháng chạp đều tự tay viết một tờ sớ trên giấy vàng [kể lể than vãn về gia cảnh của mình], cầu khẩn với thần Bếp xin chuyển đạt lên [Ngọc đế]. Đã nhiều năm như vậy nhưng chẳng thấy kết quả gì.

2. Thần Bếp giáo huấn
Cho đến năm 47 tuổi (1571), vào đêm giao thừa cuối năm, ông Du Đô đang ngồi trong nhà với đứa con gái và người vợ mù, [cảnh nhà túng quẫn nên] cả nhà đều buồn bã, thê lương tĩnh lặng, không khí ngập tràn đau thương chua xót. Bỗng nghe có tiếng gõ cửa, ông liền cầm đuốc đi ra xem, nhìn thấy một người mặc y phục màu đen, đầu đội khăn vuông kiểu đạo sĩ, râu tóc xem chừng đã vào khoảng năm, sáu mươi tuổi. Người ấy chắp tay vái chào rất lịch sự rồi [đi theo vào nhà] ngồi xuống, tự giới thiệu mình là người họ Trương, từ xa đến đây, nghe biết nhà ông có chuyện buồn khổ nên đặc biệt tìm đến an ủi.
Ông Du Đô thấy người khách có vẻ lạ thường nên thi lễ hết sức cung kính. Nhân khi trò chuyện, liền kể với ông khách họ Trương việc mình suốt đời đọc sách thánh hiền, làm thiện tích đức, nhưng đến nay đường công danh chẳng được như ý, vợ con không trọn vẹn, cơm ăn áo mặc còn chưa đủ, lại đã nhiều lần viết sớ nhờ thần Bếp trình lên [Ngọc đế] nhưng không thấy kết quả gì.
Ông khách họ Trương nói: “Chuyện nhà ông tôi đã sớm biết từ lâu rồi. Tâm ý xấu ác của ông thật quá nặng nề. Ông vốn chỉ biết chạy theo hư danh. Sớ ông viết trình lên chứa đầy những lời oán hận, xem thường Thượng đế, tôi chỉ e là sự trừng phạt còn chưa dừng lại ở mức như hiện nay đâu”.
Ông Du Đô hết sức kinh hãi, thưa rằng: “Tôi nghe nói trong chốn u minh, dù một điều thiện nhỏ cũng được ghi chép đủ. Tôi phát nguyện làm việc thiện, kính cẩn giữ mình theo khuôn phép [do Văn Xương Xã đề ra] đã lâu, lẽ nào tất cả những việc ấy đều là chuộng hư danh thôi sao?”
Ông khách họ Trương nói: “Được, vậy hãy thử lấy một điều trong những khuôn phép [do Văn Xương Xã của ông đề ra] mà xét, là việc giữ gìn kính tiếc [giấy có] chữ viết. Nhóm nho sinh các ông cùng với những kẻ mà các ông giao thiệp, hầu hết đều dùng giấy từ sách cũ để phết dán cửa sổ, bao gói đồ vật, thậm chí còn dùng để lau chùi bụi bặm trên bàn ghế, nhưng miệng thì luôn nói chớ làm dơ bẩn giấy, chỉ nên đốt hết đi. Ông ngày nào cũng nhìn thấy những việc như vậy nhưng chẳng có một lời can ngăn răn nhắc, chỉ thỉnh thoảng gặp vài mảnh giấy giữa đường thì nhặt về đốt đi, như vậy phỏng có ích gì chăng?”
“Lại nữa, trong nhóm Văn Xương Xã của ông, mỗi tháng đều làm việc phóng sinh, ông cũng chỉ qua loa làm theo, dựa vào người khác mà nên việc. Ví như những người khác không khởi làm thì ông cũng mê muội không làm, kỳ thật trong lòng ông chẳng có mảy may tâm niệm từ bi. Hơn nữa, trong nhà ông các loại tôm cua cũng thường bị đưa vào bếp nấu nướng, lẽ nào chúng lại không phải sinh mạng đó sao?”
“Mỗi khi có sai trái trong lời nói, ông lại dùng đến biện tài khéo léo lanh lợi, khiến cho người nghe phải điên đảo tưởng xấu là tốt [mà thán phục ông]. Khi ông mở miệng buông lời, trong lòng vẫn tự biết đang làm tổn thương đức tốt, chỉ vì quen thói cũ nên trong lúc cùng bạn bè tụ tập chuyện phiếm cứ theo đà chê bai, giễu cợt [người khác], không thể dừng lại được. Miệng lưỡi như thế của ông khiến quỷ thần phải nổi giận; việc xấu ác ở cõi âm đã ghi lại thật nhiều chẳng biết đến bao nhiêu mà kể. Vậy mà ông còn tự nhận mình là người đức hạnh sâu dày, lại cho rằng mình chẳng dối lừa khinh rẻ ai sao? Lại cho rằng như vậy chẳng phải là khinh rẻ trời cao đó sao?”
“Còn về chuyện tà dâm, tuy không xảy ra hành vi thực sự, nhưng ông thấy gái đẹp thì chăm chăm nhìn kỹ, tâm ý lăng xăng không còn tự chủ, chỉ là không gặp dịp thích hợp để hành sự đó thôi. Ông hãy tự xét lại mình trong những lúc ấy, liệu có được như Lỗ Nam Tử chăng? Vậy mà dám nói là “suốt đời không vướng chuyện tà dâm háo sắc, có thể đối mặt với trời đất quỷ thần” [như Lỗ Nam tử xưa kia], quả là lời dối trá”.
“Đó là những khuôn phép do chính ông tự nguyện làm theo, [được ghi thành quy củ điều luật của Văn Xương Xã] mà còn như vậy, huống chi là những việc khác?”
“Ông liên tục nhiều năm đốt sớ trình lên Thượng đế, kể lể sự tình. Thượng đế lệnh cho sứ giả Nhật Du xem xét kỹ những việc thiện ác của ông làm, trải qua nhiều năm không thấy việc thiện nào có thể ghi nhận, chỉ thấy những khi ông ở một mình nơi khuất tất vắng vẻ thì toàn là những tâm niệm tham lam, dâm dật, ganh ghét, hẹp hòi nóng nảy, tự mãn khinh người, nhớ việc đã qua, mong việc sắp đến, báo thù rửa hận... chen nhau khởi lên trong lòng, [nhiều đến mức] không thể ghi chép hết. Những sự xấu ác đủ loại khởi lên từ tâm ý như thế đã tích tụ gắn kết kiên cố từ lâu, thần minh ghi chép đã nhiều, trời giáng hình phạt ngày càng nặng, ông dù muốn tránh né tai họa còn không được thì dựa vào đâu mà cầu hưởng phước lành?”
Ông Du Đô [nghe qua như vậy] hết sức kinh hoàng, sợ hãi khôn xiết, quỳ sụp xuống đất, khóc lóc thưa rằng: “Ngài đã rõ biết hết những sự việc trong cõi u minh, nhất định là có quan hệ với tôn thần, cầu xin ngài ra tay cứu độ”.
Người khách họ Trương liền nói: “Ông là người đọc sách, hiểu rõ lễ nghĩa, lại cũng biết hâm mộ điều lành, lấy đó làm vui, nhưng đang khi nghe [người khác nói] một lời thiện lại không thể khích lệ, thấy [người khác làm] một việc thiện lại không thể cổ vũ, chỉ toàn [phạm vào những điều] lỗi lầm, hư rỗng, [hết thảy đều do] cội gốc lòng tin chưa tự sâu vững, tâm tính lại từ lâu đã quen như vậy nên không hề tự xem xét lại, vì thế mà suốt cả đời khi nói một lời lành, làm một việc thiện, [chẳng qua] đều chỉ là phô trương hư huyễn, chưa từng có lời nào, việc nào là chân thật cả. Hơn nữa, tâm niệm xấu ác lại chất chứa tràn ngập trong lòng, tiếp nối nhau không ngừng sinh khởi, như vậy mà mong muốn được trời cho phước báo tốt lành thì có khác nào mảnh đất gieo trồng đầy những gai góc, lại mê muội mong thu hoạch được lúa tốt, chẳng phải sai lầm lắm sao?”
“Ông từ nay về sau, mỗi khi có những vọng tưởng tạp niệm như tham lam, dâm dục, giả dối... thì phải đem hết quyết tâm mạnh mẽ mà dứt trừ tất cả, thanh lọc [tâm ý sao cho luôn] trong sạch an tịnh, mỗi mỗi tâm niệm đều chỉ toàn là hiền thiện. Khi gặp một việc thiện, nếu thấy sức mình có thể làm được thì phải mang hết sức ra mà làm ngay, trong lòng không mong báo đáp, không cầu danh tiếng, bất kể đó là [việc thiện] lớn hay nhỏ, khó khăn hay dễ dàng, đều đem tâm chân thành ham thích nhẫn nại mà làm; nếu thấy sức mình không thể làm nổi thì cũng phải hết lòng lưu tâm ân cần khẩn khoản, khiến cho tâm lành ấy được nuôi dưỡng trọn vẹn”.
“Điều cốt yếu thứ nhất là phải có tâm nhẫn nại, kham chịu, thứ hai là phải có tâm kiên trì không thối chuyển, nhất thiết không được biếng lười, nhất thiết phải chân thành không tự lừa dối. Cứ như vậy mà thực hành lâu ngày tự nhiên sẽ có những hiệu quả ứng nghiệm kỳ diệu khôn lường”.
“Ta thấy gia đình ông thờ kính ta từ lâu hết sức chân thành nên mới đặc biệt đến đây có mấy lời, xem như báo đáp. Ông phải nhanh chóng làm ngay không nên chậm trễ, may ra mới có thể chuyển đổi được ý trời”.
Vị khách họ Trương nói xong thì đi thẳng vào trong nhà. Du công lập tức đứng dậy đi theo, vừa đến chỗ bàn thờ thần Bếp thì hốt nhiên không còn thấy đâu nữa, mới biết người mình vừa gặp chính là ngài, liền cung kính đốt hương lạy tạ.

3. Đổi tên Tịnh Ý, chuyển ý thanh tịnh
Hôm sau đó là ngày tết Nguyên đán, ông Du Đô thiết lễ kính lạy trời đất, thề nguyện sửa đổi tất cả những lỗi lầm trước đây, thực hành mọi việc thiện, tự đổi hiệu mình là Tịnh Ý Đạo nhân, thể hiện ý nguyện muốn dứt trừ hết mọi sự sai trái xằng bậy, làm thanh tịnh tâm ý.
Ngày đầu tiên bắt đầu làm thiện, những ý niệm hỗn tạp đua nhau sinh khởi, nếu không sinh tâm ngờ vực ắt cũng rơi vào lười nhác uể oải. Trải qua mấy ngày như thế rồi lại thấy mình rơi vào chìm nổi mê muội như trước. Trong nhà có thờ tôn tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, Du Tịnh Ý liền đối trước tượng Bồ Tát lễ lạy cầu sám hối, khấu đầu đến nỗi chảy cả máu trán, cung kính phát lời đại nguyện rằng: “Con nguyện giữ cho tâm ý chỉ còn thuần nhất niệm lành, tinh tấn nỗ lực làm thiện, nếu có mảy may buông lung thối chí, thề sẽ vĩnh viễn chịu đọa vào địa ngục”.
Mỗi ngày, vào lúc sáng sớm ông đều kiên trì xưng niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm Đại từ Đại bi để cầu sự gia trì cho mình [trong việc làm thiện]. Sau đó thì mỗi một lời nói, mỗi một việc làm, mỗi một ý nghĩ trong suốt ngày ấy đều tưởng như có quỷ thần đang ở bên cạnh xem xét, tuyệt nhiên không dám dối trá lừa lọc, buông thả phóng túng.
Hết thảy những việc gì có thể cứu giúp người khác, có thể làm lợi lạc cho người, cho đời, bất kể đó là sự việc lớn hay nhỏ, bất kể bản thân mình đang lúc bận rộn hay nhàn rỗi, bất kể là người khác có biết đến hay không, cũng không ngần ngại suy lường sức lực tự thân làm nổi hay không nổi, Du Tịnh Ý đều hoan hỷ cố hết sức làm, cho đến khi thành tựu mới thôi.
Ông lại tùy nhân duyên phương tiện mà rộng làm những việc tích lũy âm đức, hơn nữa còn nỗ lực khuyên người giữ theo luân thường đạo lý, siêng năng đọc sách học hỏi, giữ lòng khiêm hạ, nhẫn nhục hòa kính, lại thường dùng những lẽ nhân quả báo ứng giảng rộng với mọi người. Ông nỗ lực chuyên cần làm thiện suốt ngày như vậy nhưng vẫn không tự cho là đủ.
Vào mỗi ngày cuối tháng, ông Du Tịnh Ý lại đem hết thảy những lời nói, việc làm trong suốt tháng đó viết thành một lá sớ đốt trước bàn thờ thần Bếp để kính cáo.
Ông thực hành như vậy cho đến khi đã thuần thục thì [đạt đến mức] thân vừa động ắt có muôn điều thiện tùy theo, tâm vừa tĩnh ắt không còn một mảy may tạp niệm nào sinh khởi.

4. Chuyển họa thành phúc
Qua ba năm như thế, ông vừa được 50 tuổi, vào niên hiệu Vạn Lịch thứ hai, triều đình mở kỳ thi Hội năm Giáp Tuất (1574). Quan Thủ phụ là Trương Giang Lăng, sau khi kết thúc kỳ thi liền dò hỏi những người đồng hương để tìm người làm thầy dạy cho con. Có người tiến cử Du Tịnh Ý, quan Thủ phụ liền cho người mời ông đến kinh đô làm thầy dạy cho con mình.
Khi nghe Du Tịnh Ý kể về những việc mình đã làm, quan Thủ phụ hết sức kính trọng đức độ và phẩm hạnh của ông, liền dựa theo quy định để giúp ông được vào học trường Quốc học.
Vào niên hiệu Vạn Lịch thứ tư, tức là năm Bính Tý (1576), ông dự kỳ thi Hương tại kinh đô, trúng tuyển cử nhân, sang năm sau lại đỗ tiếp tiến sĩ.
Ngày nọ, ông đến ra mắt quan Nội giám họ Dương, ông này gọi năm đứa con nuôi ra chào. Những người con trai này được họ Dương nhận từ khắp nơi về nuôi, xem như con mình và lấy đó làm niềm vui trong tuổi già. Du Tịnh Ý chợt nhìn thấy trong số đó có một đứa chừng 16 tuổi, dung mạo dường như quen thuộc lắm, liền hỏi quê quán. Đứa trẻ đáp: “Con người tỉnh Giang Tây, thuở nhỏ đi chơi lên nhầm thuyền buôn gạo [nên không về nhà được], còn tên họ thời ấy với tên làng xóm thì chỉ còn nhớ mường tượng mà thôi”.
Du Tịnh Ý nghe như vậy hết sức ngờ vực, liền bảo nó cởi giày ra để xem lòng bàn chân trái, quả nhiên có 2 nốt ruồi rất rõ. Ông mừng quá hét lớn: “Ôi! Con tôi đây rồi”.
Quan Nội giám họ Dương cũng hết sức kinh ngạc, lập tức cho đứa trẻ ấy theo Du Tịnh Ý về chỗ ngụ. Ông hối hả báo tin vui cho vợ. Vợ ông mừng quá, ôm con khóc lớn đến nỗi máu từ trong mắt tuôn ra ràn rụa. Đứa con cũng khóc, rồi nâng niu khuôn mặt mẹ mà thè lưỡi liếm máu mắt cho mẹ. Không ngờ lúc ấy bỗng nhiên hai mắt bà sáng lại, nhìn thấy rõ ràng. Du Tịnh Ý mừng thương lẫn lộn, không còn muốn làm quan nữa, liền từ biệt Trương Giang Lăng trở về quê nhà.
Quan Thủ phụ Trương Giang Lăng quý trọng nghĩa khí của Du Tịnh Ý, gửi biếu nhiều quà tặng và một số tiền lớn, tiễn ông về quê.
Về quê nhà, ông càng nỗ lực làm việc thiện nhiều hơn nữa. Con trai ông sau đó lập gia đình, sinh được 7 người con, tất cả đều học hành đỗ đạt thành danh.
Du Tịnh Ý ghi chép lại sự việc mình gặp thần Bếp cũng như quá trình sám hối sửa lỗi, dùng để răn dạy, giáo dục con cháu về sau.
Ông sống an ổn khỏe mạnh đến tuổi già, [mất năm 1612] thọ 88 tuổi. Người đời ai cũng cho rằng đó là do ông chân thành làm nhiều việc thiện, chuyển đổi được sự báo ứng trở thành tốt đẹp.
Kẻ hậu học sống cùng làng với ông Du Tịnh Ý là La Trinh kính ghi lại câu chuyện này.

thay đổi nội dung bởi: TinNguyenHanh, 19-02-2018 lúc 11:12
TinNguyenHanh is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
TinNguyenHanh
Xem hồ sơ
Tìm bài viết khác của TinNguyenHanh
Old 05-02-2018, 11:16   #9
TinNguyenHanh
Member
 
Avatar của TinNguyenHanh
 
Tham gia ngày: Apr 2014
Bài gởi: 126
Thanks: 1
Thanked 113 Times in 52 Posts
CẢI TẠO VẬN MẠNG TÂM TƯỞNG SỰ THÀNH (LIỄU PHÀM TỨ HUẤN)
& CHUYỆN DU TỊNH Ý GẶP THẦN BẾP
Tổng hợp có sửa đổi theo bản dịch của Nguyễn Minh Tiến
và bản do Như Hòa dịch 20 bài giảng của Pháp sư Tịnh Không


Đường link download file:
https://drive.google.com/open?id=1N9...zCdKcRikbLRamz


Font chữ lớn hơn để đọc (font 22)
https://drive.google.com/open?id=1in...W_lXEKndu8FZQc



GIẢNG LIỄU PHÀM TỨ HUẤN
PHÁP SƯ TỊNH KHÔNG

Việt dịch: Bửu Quang tự đệ tử Như Hoà


Đường link download file:
https://drive.google.com/open?id=1Mj...OJ5jW8_DRoQBRA



HÒA THƯỢNG TỊNH KHÔNG GIẢNG:
Nếu bạn muốn học Phật thì trước tiên hãy đọc Liễu Phàm Tứ Huấn 300 lần. Tại sao vậy? Người học Phật tâm phải thanh tịnh mới có thể vào được pháp vị. Tâm không thanh tịnh thì nghe Kinh vô ích, không thể vào được. Tâm tại sao không thanh tịnh vậy? Vì Tham- Sân-Si-Mạn chưa dẹp hết. Liễu Phàm Tứ Huấn đọc 300 lần thì bạn sẽ biết nhân quả báo ứng, bạn sẽ không tham nữa. Tại sao vậy? Tham không được đâu. “Nhất ẩm nhất trác mạc phi tiền định”, ở trong số của bạn phải vào năm đó phát tài, bạn xem trong số tử vi, không phải tử vi tính cho bạn được. Tại sao tính được vậy? Vì trong số có mà. Trong số không có thì không được, cho nên nói bạn phải có bao nhiêu của cải là do trong số bạn có vậy...


Đường link: tại phút thứ 5:01 trong video:
https://www.youtube.com/watch?v=MZah_VoQMaM

thay đổi nội dung bởi: TinNguyenHanh, 10-09-2018 lúc 01:02
TinNguyenHanh is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
TinNguyenHanh
Xem hồ sơ
Tìm bài viết khác của TinNguyenHanh
Old 10-09-2018, 01:07   #10
TinNguyenHanh
Member
 
Avatar của TinNguyenHanh
 
Tham gia ngày: Apr 2014
Bài gởi: 126
Thanks: 1
Thanked 113 Times in 52 Posts
Cải tạo vận mạng - tâm tưởng sự thành
(Liễu phàm tứ huấn)

Lời giới thiệu


Gần đây nhiều Phật tử tu học nhiều năm nhưng không có hiệu quả, nguyên nhân do đâu? Đó là không thực hiện trình tự tu tập đúng lời Phật dạy. Hòa thượng Tịnh Không đã khai thị về thứ tự tu tập, xin trích dẫn như sau:
- Trích “giảng Tu Hoa nghiêm áo chỉ vọng tận hoàn nguyên quán tập 25”:
“Trước đây không lâu, tôi cùng với viện trưởng của viện lập pháp có một buổi phỏng vấn qua truyền hình. Khi làm kết luận, người chủ trì tiết mục hỏi tôi một vấn đề, ông hỏi phải làm thế nào mới có thể hoá giải hết lòng tham của con người, có phương pháp gì không? Tôi nói có! Chỉ cần người tin sâu nhân quả thì lòng tham sẽ không khởi lên. Bạn học Thập Thiện Nghiệp, bạn học Đệ Tử Quy, khi danh lợi trước mắt, có lúc còn không thể nắm lấy được, vẫn xảy ra vấn đề. Nếu như người tin sâu nhân quả thì họ như như bất động, vì sao vậy? Trong mạng không có! Trong mạng không có nếu bạn khởi lòng tham mà nói, tham được thì được cái gì? Họa hại, tai nạn liền đến, không thể được, bạn sẽ không khởi lên cái ý niệm này. Tham-Sân-Si đều có thể trừ được, cho nên đạo lý của nhân quả rất quan trọng! Thế nên ở Đài Loan không có bất cứ hạn chế nào, nếu Đài Loan xây ba cái gốc này cái nào là cái thứ nhất vậy? Nhân quả là cái thứ nhất, cũng chính là nói Thái Thượng Cảm Ứng Thiên, An Sĩ Toàn Thư, đều là nghiêng nặng về giáo dục nhân quả, thế nhưng khi xây dựng nền tảng này trước tiên phải làm ấm người lên, dùng cái gì vậy? Dùng Liễu Phàm Tứ Huấn”
- Trích “giảng Liễu phàm tứ huấn nội dung và đại ý”:
“Đối với những đồng tu sơ học, tôi thường thường khuyên dạy họ đem cuốn Liễu Phàm Tứ Huấn trước tiên đọc 300 biến, vì lý do gì? Để rõ sâu nhân quả. Nghe một biến, hai biến, chẳng hữu dụng, đọc mười biến, hai mươi biến cũng chẳng hữu dụng, tại sao? Vì sức mạnh của sự huân tập quá bạc nhược. 300 biến phải hạn định thời gian đem nó đọc hết, phân lượng này chẳng nhiều, mỗi ngày niệm một biến Liễu Phàm Tứ Huấn từ đầu đến cuối, mỗi ngày niệm một biến. Niệm một năm, trong một năm mà anh chẳng gián đoạn, một năm huân tập, anh có thể tin nhân quả. Anh khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, anh có thể dễ dàng cảnh giác được. Anh động cái niệm này ra cùng đạo lý nhân quả có phù hợp chăng? Anh nếu chẳng có công lực này, chẳng có công lực của 300 biến, khi đối diện với nhân, sự thì anh sẽ đem việc này quên hết sạch sẽ rốt ráo, vẫn là tùy thuận phiền não, vẫn là tùy thuận tập khí, vậy có cách chi nữa đâu! Tôi đã khuyên rất nhiều, có được mấy người thật sự trong một năm, mỗi ngày niệm một biến, niệm được 300 biến đâu! Họ chẳng chịu làm, tôi chẳng có keo kiệt, chẳng có lận pháp. Tôi đem sự lợi ích tu học được của Phật pháp tôi đều có thể nói hết cho người khác. Cơ sở tu học của chính tôi quả thật là đắc lực nơi tập sách nhỏ này."
- Trích “Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa Tập 488”:
Giới luật nên học từ đâu? Bao nhiêu năm nay chúng tôi đưa ra, bắt đầu học từ Đệ Tử Quy, từ Cảm Ứng Thiên. Có căn bản của Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên, chúng ta học Tam quy, Ngũ giới, Thập thiện không khó, có thể ngang hàng với cổ nhân, không thua gì họ. Nếu không bắt đầu từ Đệ Tử Quy, như vậy chúng ta không có căn bản. Chúng ta không có cơ sở của giới luật căn bản, tốc độ trưởng thành sẽ rất chậm, cũng có thể khiến chúng ta thoái tâm, không thể đi hết con đường này. Do đó tôi thật sự nhận thức sự quan trọng của Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên. Có ba căn bản: Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện Nghiệp, chắc chắn được sanh về Tịnh độ. Vì sao vậy? Vì chúng ta là thiện nam tử thiện nữ nhơn. Đới nghiệp vãng sanh phải có điều kiện này, chưa làm được người tốt, làm sao sanh đến thế giới Cực Lạc để làm Phật? Muốn đến thế giới Cực Lạc làm Phật, trước phải làm người thật tốt, tốt đến mức độ nào? Tốt đến quý vị đích thực có năng lực sanh vào trời dục giới, phải có năng lực này. Đệ Tử Quy và Cảm Ứng Thiên, có thể giúp chúng ta sanh vào trời dục giới, đời sau chắc chắn không mất thân người, không có gì nghi ngờ, nhất định không đọa ba đường ác. Điều này Phật pháp bảo đảm, chúng ta sẽ không bị đọa vào ba đường ác.”

Từ khai thị trên của Hòa thượng, nhóm tổng hợp xin giới thiệu đến quý vị bản Tổng hợp có sửa đổi theo bản dịch của Nguyễn Minh Tiến và bản do Như Hòa dịch 20 bài giảng của Pháp sư Tịnh Không.



Đường link download file:
https://drive.google.com/open?id=1N9...zCdKcRikbLRamz


Font chữ lớn hơn để đọc (font 22)
https://drive.google.com/open?id=1in...W_lXEKndu8FZQc

thay đổi nội dung bởi: TinNguyenHanh, 10-09-2018 lúc 01:11
TinNguyenHanh is offline   Trả Lời Với Trích Dẫn
TinNguyenHanh
Xem hồ sơ
Tìm bài viết khác của TinNguyenHanh
Ảnh trước
nhấn phím trái
Ảnh sau
nhấn phím phải
Đóng Di chuyển
Gởi Ðề Tài Mới  Trả lời

« Ðề Tài Trước | Ðề Tài Kế »

Ðang đọc: 1 (0 thành viên và 1 khách)
 
Ðiều Chỉnh
Tạo trang in Tạo trang in
Email trang này Email trang này
Xếp Bài
Chế độ bình thường Chế độ bình thường
Chế độ pha trộn Chuyển sang chế độ Pha trộn
Chế độ Dạng cây Chuyển sang chế độ dạng cây

Quyền Hạn Của Bạn
Bạnkhông thể tạo chủ đề
You may not post replies
You may not post attachments
Bạn không thể sửa bài viết của bạn

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt


Liên Lạc - Hội Bông Sen - Lưu Trữ - Trở Lên Trên
Múi giờ GMT +8. Hiện tại là 20:27.

Powered by: vBulletin v3.7.4 Full - Copyright ©2000-2019.
Phát triển bởi tất cả các thành viên Hội Bông Sen.